LỜI CHÚC MỪNG GIÁNG SINH  2006 CỦA BAN BIÊN TẬP WEB SITE TIN VUI

 

Nhân dịp mừng Đại lễ Chúa Giáng Sinh, Ban Biên tập Web site Tin Vui kính chúc Hai Đức Hồng Y, Quý Đức Cha, Quý Cha, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý Cộng tác viên và quý vị độc giả gần xa một Mùa Giáng Sinh và một năm mới dương lịch 2007 Bình an, Vui tươi và Thánh thiện..

Chúng con chân thành cám ơn quý vị ân nhân đã cộng tác, khuyến khích, đóng góp ý kiến, nâng đỡ và yểm trợ cho công việc truyền thông Tin Mừng của chúng con trong thời gian qua.

Ban trẻ Công giáo Tin Vui

Web site www.tinvui.org

E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

 

Tuần san Công Giáo Tin vui

 

 

 

 TIN VUI

 

 CHÚA NHẬT 4  MÙA VỌNG. NĂM C..

MANG CHÚA GIÊSU ĐẾN VỚI MỌI NGƯỜI

LỄ THÁNH GIA THẤT.

Thánh gia – mẫu gương mọi gia đình.

ĐƯỢC SAI ĐI

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI CHO NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH ( 01/01/ 2007)

Giới Thiệu Sứ Ðiệp của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI cho ngày Quốc Tế Cầu Nguyện Cho Bệnh Nhân 11 tháng 2 năm 2007.

Thư Mục Vụ Mùa Giáng Sinh 2006 của Ðức Cha Micae Hoàng Ðức Oanh, Giám Mục Giáo Phận Kontum.

Lời cầu nguyện Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI dâng lên Mẹ Maria.

NHỊP CẦU ĐÊM THÁNH..

LỄ GIÁNG SINH..

Chúa Giêsu, Anh Sáng Muôn Dân.

Lễ Giáng Sinh năm nay: Tham dự Thánh lễ nào giữ được hai luật buộc?.

SỰ YẾU ĐUỐI CỦA THIÊN CHÚA..

TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006.

MÓN QUÀ LỄ GIÁNG SINH..

Gánh hàng rong.

CỦ TỎI ĂN GỎI HẠNH PHÚC..

Khi trẻ không hoà đồng với các bạn.

Quà Giáng Sinh.

 

 

 

Số 66 CN 24. 12.2006

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Text Box: SỐNG LỜI CHÚA

 

 

 


 

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG. NĂM C

24.12.2006

MANG CHÚA GIÊSU ĐẾN VỚI MỌI NGƯỜI

Lc 1, 39-45

"Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện". Đó là lời Chúa.

 

 Cuộc sống hàng ngày, thăm viếng nhau là chuyện hết sức bình thường. Nghe tin bên nhà ông A có chuyện không may, ông B đến nhà ông A thăm hỏi, chia sẻ niềm đau. Hoặc biết nhà bà B có tin vui, bà A đon đả chạy sang góp thêm tiếng cười, chia sẻ niềm vui. Hai người hàng xóm thăm nhau, hai người bạn thăm nhau, những người trong thân tộc máu mủ, họ hàng thăm nhau, tất cả đều là chuyện bình thường của cuộc sống.

Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm đoạn Tin Mừng cho biết Đức Maria đi thăm bà Isave, người chị họ của Mẹ, khi nghe tin bà mang thai. Đây là một sự thăm viếng bình thường giữa hai người họ hàng của nhau. Dẫu cho Đức maria, lúc đó đã bắt đầu mang thai Chúa Giêsu, và dẫu cho bà Isave từ xưa tới nay không có con, bây giờ lại mang thai trong lúc già nua tuổi tác, thì việc Đức Maria thăm bà Isave vẫn là chuyện bình thường. Có chăng, thì chỉ niềm vui là lớn hơn mà thôi. Nhưng trong sự thăm viếng bình thường giữa hai người phụ nữ ấy, Thiên Chúa lại làm một điều khác thường đến nỗi rất lạ thường: phi thường. Vậy đâu là sự phi thường do bàn tay Thiên Chúa?

Vì đây không chỉ là một cuộc thăm viếng, gặp gỡ giữa hai người mẹ mà thôi. Nhưng trong cuộc thăm viếng giữa hai người mẹ, là một cuộc chào đón giữa hai người con, dù hai người con đó chỉ mới là bào thai trong lòng của hai người mẹ. Sự chào đón lạ thường này, đã khiến thánh Gioan Tiền Hô nhảy mừng trong lòng bà Isave, ngay sau  lời chào đầu tiên mà Đức Maria dành cho bà. Đó cũng là lời chào đầu tiên của cuộc nói chuyện, Đức mẹ đã cất lên lời chào trước khi bà Isave chào Đức Mẹ.

Nhảy mừng là để diễn tả niềm vui. Bào thai trong lòng bà Isave, sau này chính là thánh Gioan Tiền Hô, đã biểu lộ niềm vui mừng bằng động tác “nhảy mừng”. Niềm vui cho gia đình của thánh Gioan lớn lắm. Vì đây không phải là niềm vui bình thường, nhưng là niềm vui ơn cứu độ. Niềm vui lớn lao đó, trước hết không chỉ vì hạnh phúc được Đức Maria đến thăm, đúng hơn, cùng với sự thăm viếng của mình, Đức Maria đã mang Chúa đến viếng thăm gia đình thánh Gioan.

Niềm vui càng lớn và ý nghĩa nhiều hơn, khi vừa nhập thể trong lòng Đức Maria, nghĩa là vừa mới xuống thế làm người, Chúa Kitô đã chọn gia đình thánh Gioan làm gia đình đầu tiên để Người thực hiện cuộc viếng thăm đầu tiên. Bởi thế, ơn cứu chuộc, lần đầu tiên đến trong trần gian, ngoài Đức Maria và gia đình thánh Gia, gia đình đầu tiên được diễm phúc đón nhận là chính gia đình của thánh Gioan. Còn hơn thế nữa, chẳng những được Chúa đến thăm, gia đình thánh Gioan còn hãnh diện vô cùng vì cùng với việc Đức Mẹ ở lại, gia đình thánh Gioan được Chúa ngự đến, hiện diện và sống cùng. Chỉ có mỗi một mình gia đình thánh Gioan là gia đình đầu tiên được diễm phúc như thế.

Thật ra bào thai không thể nhảy mừng, hơn nữa, bào thai, dù sẽ là một siêu nhân, cũng không bao giờ biết niềm vui, nỗi buồn, cũng chẳng hiểu được bất cứ một điều gì, để có thể nhảy mừng hay không nhảy mừng. Nhưng ở đây, thánh Luca khẳng định rất dứt khoát: “Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà” (tức là hài nhi nhảy mừng trong lòng bà Isave). Như vậy, ta phải giải thích làm sao cho hiện tượng kỳ diệu này? Chắc bạn đồng ý với tôi, đây là một phép lạ: Thiên Chúa đã thực hiện phép lạ tuyệt vời. Người đã làm cho một cuộc viếng thăm bình thường, nên rất đỗi lạ thường: thai nhi có thể nhảy cẩng lên mà vẫn bình yên vô sự. Sự nhảy mừng, đồng thời là phép lạ ấy, có được là do một bào thai khác được một người mẹ khác mang trong lòng dạ mình làm nên. Người mẹ đó là Đức Maria, và bào thai mà Mẹ mang trong dạ, còn hơn cả một con người: đó là Thiên Chúa làm người. Chỉ có một Thiên Chúa và quy về Thiên Chúa, ta mới dám khẳng định đức tin của mình vào một sự kiện lạ thường như thế.

Vâng! Chỉ có Thiên Chúa mới làm nên điều kỳ diệu đến nỗi con người phải chưng hửng. Do đó, việc Đức Mẹ thăm viếng bà Isave không còn là một cuộc thăm viếng bình thường nữa, mà là một cuộc trao ban ơn cứu độ. Mẹ đã mang chính Đấng là Ơn Cứu Độ tuyệt đối đến cho gia đình bà Isave.

Mẹ đến thăm bà Isave, thì trong hành động đến thăm đó, Mẹ đã mang Chúa Giêsu đến cho gia đình bà Isave. Bởi vậy, bất cứ nơi nào người ta mang Thiên Chúa đến cho nhau, ở đó có niềm vui, có sự bình an, có ơn thánh, và sự cứu rỗi sẽ tràn ngập.

Trong cuộc thăm viếng người chị họ của mình, Mẹ Maria dạy chúng ta một bài học đáng giá: Hãy mang Chúa đến với mọi người, chứ đừng mang hận thù, đừng mang những suy nghĩ đen tối về anh chị em mà đến với nhau. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ để yêu thương và chia sẻ tình yêu của bản thân với mọi người. Càng hướng tới lễ Giáng sinh, ta càng phải chuẩn bị tâm hồn thoát  ly khỏi những gì làm cản trở mình đến với anh chị em. Hãy cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, để như Mẹ, ta cũng có thể mang một tâm hồn tràn ngập sự sống của Chúa Giêsu và mang chính Chúa Giêsu đến với anh chị em xung quanh. Nhờ đó, mọi người sẽ chứa chan niềm vui, chứa chan ơn thánh, chứa chan niềm hạnh phúc và bình an. Và để cưu mang chính Chúa Giêsu trong tâm hồn, bạn và tôi cần thường xuyên tra vấn chính mình, cần nhìn lại mình, kiểm điểm mình một cách cẩn thận, đừng làm qua lần chiếu lệ. Nhờ thái độ nội tâm ấy, ta sẽ nhận ra chỗ nào còn gồ ghề, chỗ nào là hố sâu, chỗ nào làm ta chưa thể đến với anh chị em, để rồi thành tâm sửa đổi, làm mới lại con người mình. Làm mới lại chính mình để có thể thuộc về anh em mình như thế, đó chính là biểu hiện của một tâm hồn có Chúa Kitô. Nói cách khá: biểu hiện của một tâm hồn cưu mang Chúa.  

Lm. VŨ XUÂN HẠNH

Mục lục

 

LỄ THÁNH GIA THẤT

(31.12.2006)

Lc 2, 41-52

"Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.

Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại.

Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.

Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta. Đó là lời Chúa.

 

Thánh gia – mẫu gương mọi gia đình

 

 

Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nagiarét và hằng vâng phục các ngài ‘ ( Lc 2, 51a)

 

Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng “Xin Vâng“ ở Nagiarét. Con Thiên Chúa làm người đã không chọn một con đường nào khác ngoài con đường sống trong một mái ấm gia đình có cha, có mẹ, một gia đình thật bình thường nhưng rất đỗi phi thường, vì Người được sinh ra trong một gia đình thánh thiện, một gia đình không bao giờ thiếu bầu khí yêu thương, đạo hạnh.

 

Trong ngày lễ Thánh Gia, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm gia đình Thánh.

 

Chúng ta không biết nhiều về đời sống Thánh Gia. Nhưng trong Tin Mừng thời thơ ấu theo Thánh Máthêu và Thánh Luca cho chúng ta thấy, gia đình Nagiarét không phải là luôn luôn phẳng lặng mà hầu như đầy tràn sự khó khăn, các ngài đã gặp biết bao chông gai thử thách, biết bao sóng gió hầu như khó lòng vượt qua, nhưng Thánh Giuse và Mẹ Maria luôn sống trong niềm tin cậy, phó thác hoàn toàn vào sức mạnh của Thiên Chúa. Bí quyết giúp Thánh Giuse và Mẹ Maria vượt thắng thử thách, phải chăng chính là có Chúa luôn bên cạnh ? Sự hiện diện của Chúa luôn mãi là nền tảng của Thánh Gia Thất để mọi khó khăn được giải quyết một cách dễ dàng. Do đó, gia đình Nagiarrét đã trở nên mẫu gương cho mọi gia đình.

 

Đâu là mẫu gương của gia đình Nagiarét ?

 

Cha của Chúa Giêsu là Giuse công chính, luôn sống trong ân sủng của Thiên Chúa và là gia trưởng của gia đình thánh. Mẹ của Chúa Giêsu là Maria khiêm tốn, luôn sống theo thánh ý của Thiên Chúa Cha. Tất cả gia đình Thánh Giuse đều sống trong sự hoà thuận, yêu thương, trong đó mỗi người vì mọi người, mỗi người đều sống cho người khác và cho Thiên Chúa. Một gia đình hoạ lại hình ảnh của sách Huấn ca, làm con phải hiếu thảo, phải ngoan hiền, rộng lương và bao dung đối với cha mẹ. Thái độ ấy sẽ đem lại hạnh phúc cho chính mình và vun đắp hạnh phúc cho gia đình, vì Thiên Chúa lúc nào cũng chứng giám cho hành động, cử chỉ và thái độ tốt lành ấy. Gia đình Nagiarét lại còn làm nổi bật những nhân đức, luân lý của một gia đình như Thánh Phaolô đã viết trong thư Côlôsê ( Cl 3, 12- 21). Thánh Phaolô đặt nền tảng gia đình trên sự yêu thương vì “Thiên Chúa là tình yêu “ đây là mối dây ràng buộc mọi thành phần trong gia đình để mọi người có thái độ cư xử tốt với nhau. Vì thế, thái độ đối với nhau trong gia đình không chỉ dựa trên sự tùng phục, vâng lời nhau mà cần dựa trên nguồn tình yêu, được diễn tả bằng tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm tốn, cảm thông, tha thứ, kiên trì, độ lượng, nhẫn nại.

 

Nơi Mẹ Maria, Mẹ thấy mình đang sống bên một Mầu Nhiệm. Chính vì thế, Mẹ đắm chìm cầu nguyện. Các biến cố đời thường vẫn làm mẹ ngỡ ngàng. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính trước Mầu Nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi. Tất cả trở nên lời nói kín đáo của Thiên Chúa mà Mẹ thích “giữ kỹ và hằng suy niệm trong lòng” ( Lc 2, 51) Đời sống thiêng liêng của Mẹ không ngừng tìm hiểu về Đức Giêsu và chấp nhận để cho Con ra đi hiến thân phụng sự Thiên Chúa. Mẹ chẳng giữ con lại trong vòng tay của mình, Mẹ để Con lên đường. Mẹ dâng Con trên Núi Sọ và chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ hiểu Con.

 

Còn Thánh Giuse là người đứng mũi chịu sào cho cuộc sống của gia đình. Nói đến cuộc sống là nói đến cái ăn, cái mặc và những nhu cầu thúc bách khác. Thế nào cũng có những khó khăn riêng. Ông thợ mộc Giuse phải vất vả để lo sao cho gia đình mình sống được. Lao động nghiêm túc để phục vụ cho gia đình, đó là con đường nên thánh của Giuse.

 

Như vậy, Nagiarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương hiến mình cho người khác.

 

Đức Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ. Và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trường thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.

 

Ngài đã muốn chọn việc bình thường như mọi người để được sinh ra và lớn lên, được sống đích thực trong một gia đình và đó là cái rất bình thường đã giáo huấn, để làm gương cho mọi gia đình. Ngài lớn lên từ từ trong thời gian. Ngài không hấp tấp hối hả, nhưng cũng không dậm chân tại chỗ. Hôm nay của Ngài vẫn liên tục với hôm qua, nhưng lại vượt hôm qua. Có những điều phải bỏ lại để đón nhận những điều mới, Hài Nhi Giêsu đã đi một chặng đường hơn 30 năm để trở thành một Giêsu trưởng thành và chin chắn, sẵng sàng đón nhận sứ mạng Thiên Chúa Cha trao ban.

 

Chắc chắn Đức Giêsu không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con cái…mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển về mọi mặt ”ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”.

 

Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia thất là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tấp đưa Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha. Nền giáo dục gia đình đã giúp con biết đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa “ Cha mẹ không biết con có bổn phận ở Nhà Cha Con sao ?“

 

Ngay từ 12 tuổi, Đức Giêsu đã ý thức Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng mà Ngài trìu mến gọi là Cha. Ngài đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này và Ngài cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận : “Ở lại trong Nhà Cha” hay “lo việc của Cha”. Càng lúc, Đức Giêsu càng ý thức  về mình, trong tương quan với Cha  và trong sự thúc bách của sứ mạng Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha  trao phó.

 

Thánh gia thất đã trở nên mẫu gương sống động cho mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn và từng người chúng ta.

 

Cuộc sống hiện tại của chúng ta không sao tránh khỏi những hy sinh và mất mát, những khổ cực và lo âu. Điều quan trọng là chúng ta biết nắm lấy tay Chúa và cầm lấy tay nhau để có nghị lực mà vượt qua trong bình an, thanh thản.

 

Vậy, chiêm ngắm gia đình Nagiarét là chọn Chúa làm cùng đích, là nền tảng cho đời sống cộng đoàn, cho đời sống của cá nhân, là mặc lấy những tâm tình mến yêu, từ bi, quảng đại để sống cho mọi người và vì mọi người.

 

Chiêm ngắm gia đình Nagiarét là chấp nhận mọi khó khăn đã có, đang có và sẽ xảy tới, nhưng tin rằng có Chúa hiện diện, mọi khó khăn sẽ được giải quyết mau chóng và thoả đáng.

 

Chiêm ngắm gia đình Nagirét là dưới cuộc sống nghèo của Thánh Gia Thất, là đọc ra được sự thánh thiện tột bậc và sự khiêm nhường, vâng phục mà Thánh Giuse và Mẹ Maria đã thực hiện trong đời sống của mình, nhờ có Chúa luôn hiện diện để khoả lấp những thiếu thốn.

 

Chiêm ngắm gia đình Nagirét là biết sống quảng đại trước sứ mạng Thiên Chúa trao phó, biết mở rộng lòng đáp trả tiếng mời gọi thực thi Thánh Ý Chúa.

 

Chúa Giêsu quả đã rất thực tế khi chọn một gia đình hoàn toàn thánh thiện để sinh ra, để lớn lên. Ngày nay Chúa đã làm cho mọi gia đình, mọi cộng đoàn chúng ta có nền tảng vững chắc nhờ sự hiện diện liên tục của người. Chúng ta cám ơn Thánh Giuse và Mẹ Maria đã cho thế giới một Đức Giêsu biết yêu  thương, biết say mê cầu nguyện và lao động không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại và Nước Cha.

 

Nữ tu Maria Tuyết

Mục lục

 

Text Box: CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

 

 

 

 

 


 

ĐƯỢC SAI ĐI

 

 

Để mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta thường tăng cường cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và tạ ơn.

Đó là những việc chung chung.

Nhưng khi muốn việc cầu nguyện, hồi tâm, sám hối và tạ ơn dễ sinh hiệu quả tốt, chúng ta nên tập trung vào một vài điểm cụ thể.

Điểm cụ thể nên chọn lúc này là gì?

Thưa tuỳ cái nhìn của mỗi người. Riêng tôi, tôi chọn vấn đề ơn gọi được sai đi.

 Lý do chọn là vì:

1/ Ơn gọi được sai đi đã rất được đề cao thuở xưa trong biến cố Chúa Cứu thế giáng trần.

2/ Ơn gọi được sai đi hiện nay đang được sống nhiều cách tại Việt Nam để làm chứng cho mầu nhiệm giáng sinh.

Tôi xin phép chia sẻ vắn tắt từng điểm.

1/ Ơn gọi được sai đi đã rất được đề cao thuở xưa trong biến cố Chúa Cứu thế giáng trần

Chúa Giêsu xuống trần, là do Chúa Cha sai đi với mục đích rõ ràng. Tác giả thư gởi dân Do Thái đã ghi lại âm vang lời Chúa Giêsu thưa cùng Đức Chúa Cha: "Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề luật. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài" (Dt 10,8).

Đoạn thư trên đề cao sự Đức Giêsu xin vâng thánh ý Chúa Cha sai Người xuống thế.

Trong tinh thần vâng phục của kẻ được sai đi, Chúa Giêsu suốt cuộc đời dưới thế đã chỉ thi hành ý Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: "Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì" (Ga 12,49).

Không phải chỉ mọi lời Đức Kitô nói ra đều do Chúa Cha sai Người phải nói, mà cả đến việc nạp mình chịu tử nạn cũng do chính Chúa Cha muốn Người thực hiện. Trong vườn cây Dầu, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Lc 22,42).

Như vậy, suốt cuộc đời trần thế của Đức Giêsu từ khi sinh ra cho đến chết đều tóm gọn lại một lời: Chúa Cha đã sai con, và con đã hoàn toàn vâng phục thực thi thánh ý Chúa Cha.

 Nhân vật quan trọng thứ hai trong biến cố Chúa giáng sinh là Đức Mẹ Maria . Cuộc sống của Đức Mẹ cũng đã được tóm gọn lại trong lời "xin vâng" trong ngày thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ.

Nhân vật thứ ba ta thấy trong hang đá Belem là thánh Giuse . Đời Ngài là một gương sáng về sự vâng phục thánh ý Chúa một cách mau lẹ, khiêm tốn, âm thầm.

Đức Mẹ và thánh Giuse đều là những người được Chúa gọi và được Chúa sai đi cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa Cứu thế.

Chúa gọi và sai các Ngài bằng nhiều cách khác nhau. Như bằng sự thiên thần hiện ra với Đức Mẹ, bằng cách báo mộng cho thánh Giuse, bằng cách Chúa gợi ý cho Đức Mẹ đi thăm bà Isave.

Nhưng Chúa cũng gọi bằng những biến cố thời sự, như lệnh vua truyền kiểm tra dân số, sự kiện dân  làng  Belem không  còn  chỗ  trọ cho việc trọng đại Chúa Trời giáng sinh. Nhiều chi tiết chỉ là thời sự chung, nhưng trong đó có thánh ý Chúa. Đức Mẹ và thánh Giuse đã đọc được ơn gọi mà thánh ý Chúa gởi cho mình trong thời sự lịch sử. Các Ngài đã nhận ra các chi tiết về ơn gọi của mình nhờ ơn Chúa Thánh Thần và nhờ quy chiếu các sự kiện xảy ra vào những lời Chúa đã ghi trong Kinh Thánh, nhất là qua các tiên tri đã nói trước về hình ảnh và cuộc đời Đấng cứu thế sẽ đến.

 Đấng đó sẽ hoà mình với những khổ đau của lớp người bị loại trừ, với mục đích đổi mới tâm hồn con người. Mong họ biết tìm về hạnh phúc được chung hưởng niềm hoan lạc bất tận bên người Cha đầy tình yêu thương xót.

Như thế, cả ba nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa giáng sinh đều là những Đấng đã sống ơn gọi được sai đi một cách triệt để.

 Còn hiện nay thế nào?

2/ Hiện nay tại Việt Nam ơn gọi sai đi để làm chứng cho mầu nhiệm Chúa giáng sinh được nhận thấy dưới nhiều hình thức

 a) Hình thức thứ nhất là đời sống đạo đức nơi những con người sống động.

 Họ giới thiệu mầu nhiệm giáng sinh bằng chính đời sống của họ. Đó là đời sống luôn vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa về họ được họ nhận ra từ Lời Chúa, từ Hội Thánh, từ thời sự, từ những biến cố riêng tư xảy ra cho họ, từ những cái nhìn sâu sắc về tình hình hiện tại và tương lai, từ trách nhiệm luôn đi liền với ơn được làm con Chúa.

Lãnh vực mà người ta dễ nhận ra sự đạo đức của họ là lãnh vực bác ái, dấn thân phục vụ, chia sẻ cuộc sống người nghèo khổ.

 b) Hình thức thứ hai là sự kính trọng đối với Hội Thánh và những người được Chúa gọi và sai đi để làm chứng cho Chúa trong mọi lãnh vực đạo đời .

Giáo Hội Việt Nam vốn có thói quen kính trọng và thảo hiếu đối với các người được Chúa gọi và sai đi. Thói quen đó đã trở thành truyền thống. Các người mà truyền thống lòng đạo ở Việt Nam dành cho sự kính trọng và hiếu thảo cách riêng thường là các vị được chọn bởi chính Đức Giáo Hoàng là vị đại diện Chúa ở trần gian. Các ngài vẫn mang những giới hạn của con người yếu đuối, nhưng khi được Chúa thương gọi và sai đi, các ngài nên được chúng ta nhìn một cách tế nhị và thương cảm, với những lời cầu nguyện và hy sinh dâng lên Đấng đã gọi và sai các ngài.

 c) Hình thức thứ ba là thiện chí làm những việc lành nhỏ, để dâng cho Chúa Hài Đồng.

 Tôi thấy thời nay, rất nhiều người Việt Nam đang đi tìm nơi, tìm người, tìm đạo, để đặt hy vọng. Họ đi tìm bằng những việc lành nhỏ, những lời cầu nhỏ, những khát vọng nhỏ. Tôi có cảm nghĩ là họ cũng được ơn gọi và được sai đi qua một động lực âm thầm của Chúa. Sự kiện đó ứng nghiệm lời Chúa phán xưa là: Có nhiều điều "Chúa chỉ mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21).

 

Để kết, tôi muốn nói lên ở đây một cảm tưởng rất chân thành của tôi. Cảm tưởng đó là: Nước Chúa tình yêu vẫn tiếp tục được nhiều tâm hồn Việt Nam đón nhận. Tất nhiên điều đó không có nghĩa là mọi sự diễn ra dễ dàng. Xưa các Đấng được sai đi tại Belem để cứu đời, đã vâng theo thánh ý Chúa Cha, chia sẻ cuộc sống những người nghèo khổ. Nay mọi người đều mong tất cả các môn đệ Chúa được sai đi cứu đời tại Việt Nam này cũng tiếp tục đi con đường đó, theo hoàn cảnh của mình.

Xin cầu nguyện cho nhau và xin nâng đỡ nhau trong ơn gọi được sai đi, nhất là trong thời buổi khoảng cách giàu nghèo càng lớn. Đặc biệt là hãy  tỉnh thức. Bởi vì Noel năm nay loan báo một tương lai không phải sẽ nhiều bình an, mà là sẽ nhiều lo âu trăn trở cho mọi người thiện chí thiện tâm.

 

ĐGM GB. BÙI TUẦN

Mục lục

 

Text Box: HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

 

 

 


 

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI CHO NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH ( 01/01/ 2007)

 

 NHÂN VỊ, TRỌNG TÂM CỦA HOÀ BÌNH

 

 

 1.Vào đầu năm mới, tôi xin gửi đến các giới chức Chính Quyền, những nhà lãnh đạo các quốc gia cũng như mọi người nam nữ thiện chí lời cầu chúc hoà bình của tôi. Đặc biệt, tôi gửi lời cầu chúc hoà bình đến tất cả những ai đang phải chịu đau khổ, những người đang sống dưới sự đe doạ của bạo lực và hân thù vũ trang, cũng như những người mà nhân phẩm của họ bị chà đạp, đang chờ đợi sự giải phóng con người và xã hội. Tôi cầu chúc hoà bình cho các trẻ em, những con người ngây thơ vô tội; các em làm cho nhân loại thêm phong phú bằng sự tốt lành và niềm hi vọng, nhưng cũng là những người phải chịu biết bao đau khổ, thôi thúc tất cả chúng ta hành động cho công lí và hoà bình. Vì quan tâm đến các trẻ em, nhất là những em mà tương lai bị tổn thương do sự khai thác và do lòng độc ác của những người lớn vô lương tâm, tôi mong ước ngày Thế Giới Hoà Bình này thúc giục mọi người suy tư về chủ đề: Nhân vị, Trọng Tâm của Hoà Bình . Tôi xác tín rằng sự tôn trọng con người sẽ phát triển hoà bình, và khi xây dựng hoà bình thì những nền tảng được đặt trên một học thuyết nhân bản toàn diện đích thực. Như vậy là chuẩn bị cho những thế hệ nối tiếp một tương lai an bình.

 

 Nhân vị và hoà bình: ơn ban và trách nhiệm

 

 2. Sách Thánh xác quyết rằng “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình, theo hình ảnh Thiên Chúa, Người tạo dựng họ; Người tạo dựng họ có nam có nữ ”(St 1, 27). Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, mỗi người đều có phẩm giá của một nhân vị ; họ không chỉ là một vật thể, mà còn là một con người, có khả năng ý thức, tự quy, tự do trao hiến và đi vào hiệp thông với tha nhân. Đồng thời, nhờ ân sủng mỗi người được mời gọi kết ước với Đấng Tạo Hoá, được mời gọi trao hiến cho Người một sự đáp trả bằng đức tin và tình yêu  mà không một thụ tạo nào khác có thể trao ban thay thế họ (1). Từ cái nhìn siêu nhiên này, mỗi người có thể hiểu rõ trách nhiệm được kí thác cho loài người là lớn lên trong khả năng yêu thương và góp phần vào việc phát triển thế giới, đổi mới nó trong công lí và hoà bình. Trong một câu súc tích tuyệt vời, Thánh Augustinô dạy rằng “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Người không cần sự cộng tác của chúng ta; nhưng Người không thể cứu chuộc chúng ta nếu không có sự hợp tác của chúng ta (2).” Do đó mọi người đều có bổn phận phải vun trồng ý thức lưỡng diện về ơn ban và trách nhiệm.

 

 3. Cũng vậy, hoà bình vừa là ơn ban vừa là trách nhiệm. Nếu sự thật là hoà bình giữa cá nhân và mọi ngừơi- khả năng sống chung và xây dựng những tương quan công bình và liên đới- đòi hỏi một sự dấn thân liên lỉ về phía chúng ta, thì cũng vậy, và còn hơn thế, hoà bình là một ân huệ của Thiên Chúa. Hoà bình là một hình thái hoạt động của Thiên Chúa vừa biểu lộ trong việc tạo dựng một vũ trụ hài hoà và trật tự cũng như trong việc cứu chuộc loài người, nghĩa là cần phải được giải thoát khỏi tình trạng hỗn loạn của tội lỗi. Như vậy Tạo Dựng và Cứu Chuộc là những mật khoá giúp chúng ta hiểu ra ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trần gian. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Gioan Phaolô II, khi phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 5 tháng Mười năm 1995, nói rằng “chúng ta không sống trong một thế giới phi lí và vô nghĩa…có một trật tự luân lí được thiết định trong đời sông con người tạo nên một cuộc đối thoại khả dĩ giữa cá nhân và mọi người (3).” “Ngữ pháp” siêu việt, nghĩa là một tổng hợp các quy tắc cho hành vi cá nhân cũng như cho những tương quan hỗ tương giữa con người hợp theo công bình và liên đới, đã được ghi tạc vào lương tâm con người, nơi đó phản ánh kế hoạch khôn ngoan của Thiên Chúa. Như mới đây tôi đã có dịp tái khẳng định: “Chúng ta tin rằng từ khởi nguyên mọi sự, Ngôi Lời Hằng Hữu là Lí Trí chứ không phải là Phi Lí (4)”. Như vậy, hoà bình cũng là một trách nhiệm đòi hỏi mọi người một sự đáp trả cá nhân, phù hợp với chương trình của Thiên Chúa. Tiêu chuẩn thúc đẩy sự đáp trả này chỉ có thể là sự tôn trọng  đối với “ngữ pháp” đã được Đấng Tạo Dựng ghi tạc vào tâm khảm con người.

Từ quan điểm này, những quy tắc về luật tự nhiên không được coi như những chỉ thị áp đặt từ bên ngoài, như những hạn chế đối với tự do con người. Đúng hơn, chúng phải được đón nhận như một lời mời gọi để thực hiện một cách trung thành kế hoạch phổ quát của Thiên Chúa đã được ghi khắc vào trong bản tính của con người. Được các quy tắc này hướng dẫn, mọi người- trong nền văn hoá đặc thù của mình-  có thể tiến đến gần mầu nhiệm cao cả nhất, là mầu nhiệm Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, sự nhận biết và tôn trọng luật tự nhiên được đặt làm nền tảng cho một cuộc đối thoại giữa những tín đồ của những tôn giáo khác nhau cũng như giữa những tín hữu và những người không tin. Đó là một điểm hội ngộ chung, và đó cũng là điều giả định căn bản cho nền hoà bình đích thực.

 

 Quyền sống và quyền tự do tôn giáo  

 

 4. Bổn phận tôn trọng phẩm giá mỗi người, mà nơi bản tính của họ phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, mặc nhiên có nghĩa là con người không thể tự ý định đoạt cho mình. Những người được hưởng nhiều quyền hạn hơn về chính trị, kĩ thuật, hoặc kinh tế không nên dùng khả năng ấy mà xâm phạm quyền của những người kém may mắn hơn. Hoà bình được đặt trên sự tôn trọng quyền của mọi người. Ý thức điều đó, Giáo Hội bảo vệ những quyền căn bản của mỗi người. Đặc biệt Giáo Hội đề cao và bảo vệ việc tôn trọng sự sống sự tự do tôn giáo của mọi người. Tôn trọng quyền sự sống trong mỗi giai đoạn chắc chắn chứng thực một nguyên lí có tầm quan trọng quyết định: sự sống là một hồng ân; chủ thể không được toàn quyền định đoạt. Một cách tương tự, khẳng định quyền tự do tôn giáo đặt con người vào trong tương quan với một Nguyên Lí siêu việt, đưa con người ra khỏi sự chuyên chế của chính con người. Quyền sự sống và sự tự do diễn đạt niềm tin riêng của mình vào Thiên Chúa không lệ thuộc vào quyền hành của con người. Hoà bình đòi hỏi sự thiết lập một ranh giới minh thị giữa những gì do con người có quyền định đoạt và những gì không thuộc quyền ấy: như thế người ta có thể tránh được những xâm phạm không đáng có đối với di sản thuộc về giá trị con người.

 

5. Liên quan đến quyền sự sống, chúng ta phải tố cáo sự xâm hại đang lan rộng trong xã hội chúng ta: ngoài những nạn nhân  do các cuộc xung đột vũ trang, do chủ nghĩa khủng bố và những hình thức bạo lực khác nhau, còn có những cái chết âm thầm do đói nghèo, phá thai, thử nghiệm phôi người và chết êm dịu. Làm sao chúng ta lại không nhận ra sự tấn công vào hoà bình trong tất cả những điều ấy? Phá thai và thử nghiệm phôi người là sự phủ nhận trực tiếp thái độ đón nhận người khác, vốn không thể thiếu được trong việc thiết lập những tương quan hoà bình lâu dài. Liên quan đến sự tự do bày tỏ niềm tin cá nhân, một triệu chứng bất ổn khác về sự thiếu vắng hoà bình trong thế giới được biểu tỏ qua những khó khăn mà cả những Kitô hữu cũng như tín đồ của các tôn giáo khác thường xuyên gặp phải trong việc công khai và tự do tuyên xưng những xác tín tôn giáo của mình. Nói riêng về các Kitô hữu, tôi phải đau lòng chỉ ra rằng không phải chỉ đôi khi họ bị ngăn cấm làm điều đó; trong một số quốc gia họ bị bách hại thật sự, và những trường hợp bi thảm về bạo lực dã man mới đây vẫn còn được ghi nhận. Có những chính thể áp đặt một tôn giáo duy nhất cho mọi người. Dẫu thường không tiến hành những sự bách hại gắt gao dữ dội, các chính thể trần tục này lại thực hiện sự lăng mạ có tính cách hệ thống và mang tính văn hoá đối với những niềm tin tôn giáo. Trong mọi trường hợp, quyền căn bản của con người không được tôn trọng tạo nên sự phản dội nghiêm trọng cho sự chung sống hoà bình. Điều này chỉ làm mạnh thêm cho một tâm thức và văn hoá tiêu cực đối với hoà bình.

 

 Sự bình đẳng thiên bẩm giữa mọi người

 

 6. Cội nguồn của nhiều căng thẳng đe dọa hoà bình chắc chắn là vô số những bất bình đẳng phi lí vẫn còn tồn tại một cách bi thảm trong thế giới chúng ta. Đặc biệt khó khăn trong số này, một mặt là sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận những của cải căn bản như thực phẩm, nước sạch, nhà ở, sức khoẻ; mặt khác có những bất bình đẳng cố hữu giữa người nam và người nữ trong việc thực hiện những quyền con người căn bản.

 

 Yếu tố nền tảng để xây dựng hoà bình là nhìn nhận sự bình đẳng thiết yếu giữa mọi người xuất phát từ phẩm giá siêu việt chung. Bình đẳng trong tầm mức này là một sự thiện hảo thuộc về mọi người, được ghi khắc trong “ngữ pháp” tự nhiên, có thể suy ra từ chương trình tạo dựng của Thiên Chúa; một sự thiện hảo không thể làm ngơ hoặc khinh miệt mà không gây ra những phản dội nghiêm trọng, đặt hoà bình vào mối hiểm hoạ. Sự tước đoạt cực kì nghiêm trọng tác hại đến nhiều dân tộc, nhất là tại Châu Phi, là nguồn gốc của những phản ứng bạo động, và vì thế, tạo nên một vết thương tồi tệ cho hoà bình.

 

 

7. Một cách tương tự, sự thiếu tôn trọng thỏa đáng đối với thân phận người phụ nữ tạo nên sự bất ổn trong cơ cấu xã hội. Tôi liên tưởng đến việc khai thác những người phụ nữ, bị coi như những đồ vật và nhiều hình thức khai thác khác tỏ rõ sự thiếu kính trọng đối với phẩm giá của họ; tôi cũng nghĩ tới – trong một bối cảnh khác- về tâm thức cố hữu trong một số nền văn hoá, nơi mà phụ nữ vẫn còn phải lụy phục một cách bất suy chuyển vào những quyết định độc đoán của đàn ông, tạo nên những hệ qủa nghiêm trọng  đối với phẩm giá cá nhân của họ cũng như cho việc thực hiện những quyền tự do căn bản. Người ta không thể xây dựng ảo tưởng về một nền hoà bình vững chắc khi nào những hình thái đối xử phân biệt này chưa bị loại bỏ, bởi vì chúng làm tổn hại đến nhân phẩm mà Đấng Tạo Hoá đã đóng ấn trên mỗi người (5).

 

 “Môi trường sinh thái của hoà bình”

 

 8. Trong Thông điệp Centesimus Annus , Đức Gioan Phaolô II viết: “Thiên Chúa không chỉ ban cho con ngừơi  trái đất để họ sử dụng trong sự tuân thủ mục đích tốt đẹp nguyên thủy như nó được trao ban cho họ, nhưng con người cũng là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho chính con người. Do đó họ phải tôn trọng trật tự tự nhiên và luân lí mà họ được phú bẩm (6)”. Đáp lại huấn lệnh được Đấng Tạo Hoá ủy thác cho họ, những người nam nữ có thể liên kết với nhau trong việc kiến tạo một thế giới hoà bình. Bên cạnh môi trường sinh thái thiên nhiên còn tồn tại một thế giới được gọi là môi trường sinh thái “nhân sinh”, và rốt cuộc, lại cũng cần đến một môi trường sinh thái “xã hội”. Sự thể này có nghĩa là nếu nhân loại thật sự mong muốn hoà bình họ phải không ngừng ý thức mối liên hệ giữa môi trường sinh thái tự nhiên, hay việc tôn trọng thiên nhiên, và môi trường sinh thái của con người. Kinh nghiệm cho thấy rằng thái độ bất ý đối với môi trường sinh thái luôn tác hại đến sự tồn sinh của con người, và ngược lại . Càng hiển nhiên hơn nữa trong tương quan giữa hoà bình với tạo vật và hoà bình giữa con người. Cả hai mối tương quan này phải đi trước hoà bình với Thiên Chúa. Bài  thơ kinh của Thánh Phanxicô, được đặt là “Khúc ca Mặt Trời”, là một mẫu mực tuyệt vời và luôn hợp thời về môi trường sinh thái đa diện của hoà bình.

 

9. Mối liên hệ khắng khít giữa hai loại hình môi trường sinh thái này có thể được hiểu rõ hơn từ vấn đề cung cấp năng lượng . Trong những năm gần đây nhiều quốc gia mới khởi phát năng nổ tiến vào việc sản xuất công nghiệp, vì vậy nhu cầu năng lượng tăng cao. Điều này dẫn đến một cuộc chạy đua chưa từng thấy trong việc dành nguồn năng lượng. Tuy nhiên, một số nơi trên hành tinh này vẫn còn lạc hậu và sự phát triển thật sự bị bế tắc, một phần là do giá năng lượng biến tăng. Điều gì sẽ xảy ra cho các dân tộc đó? Những mô hình phát triển hay không phát triển nào sẽ áp đặt trên họ do khan hiếm nguồn cung cấp năng lượng? Những sự bất công nào và những cuộc xung đột nào sẽ tạo phát do việc chạy đua tìm nguồn năng lượng? Và những phản ứng nào sẽ xảy ra đối với những người bị loại khỏi cuộc chạy đua này? Đây là những vấn nạn cho thấy rõ việc tôn trọng thiên nhiên gắn chặt với nhu cầu phải thiết lập những mối tương quan, giữa các cá nhân với nhau cũng như giữa các quốc gia, biết chú tâm đến phẩm giá con người đồng thời có khả năng giải quyết các nhu cầu chính đáng của họ. Triệt hủy môi trường, sử dụng ích kỉ hoặc không thích đáng, cưỡng chiếm nguồn năng lượng trái đất sẽ gây ra những mối rạn nứt, những xung đột và những cuộc chiến tranh, chính do bởi chúng là hệ qủa của một quan niệm vô nhân đạo về phát triển. Qủa thật, nếu việc phát triển chỉ giới hạn vào khía cạnh kĩ thuật- kinh tế mà bỏ qua chiều kích tôn giáo và đạo lí thì nó không còn phải là sự phát triển con người toàn diện, nhưng chính sự méo mó lệch diện ấy kết cục sẽ làm phát sinh những khả năng hủy diệt con người.

 

 Những cái nhìn hạn hẹp về con người

 

 10. Do đó, một nhu cầu khẩn thiết nảy sinh, dẫu còn đan xen biết bao những khó khăn và căng thẳng  quốc tế hiện nay, về một sự dấn thân để kiến tạo một môi trường sinh thái nhân văn tạo thuận lợi cho sự tăng triển của “cây hoà bình”. Để điều này xảy ra, chúng ta phải được hướng dẫn bởi một hướng nhìn về con người không bị vấy bẩn vì những định kiến ý thức hệ và văn hoá, hoặc vì những nguồn lợi về chính trị và kinh tế vốn có thể dẫn đến thù hận và bạo lực. Người ta có thể hiểu rằng những quan điểm về con người có thể biến đổi theo từng nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên điều không thể nào chấp nhận được đó là việc truyền thụ những khái niệm nhân loại học chất chứa những hạt mầm của thù oán và bạo lực. Cũng không thể nào chấp được những khái niệm về Thượng Đế cổ vũ thái độ bất khoan dung và bảo trợ cho bạo lực chống lại người khác. Đây là một chuẩn điểm cần phải được tái khẳng định một cách minh thị: chiến tranh nhân danh Thượng Đế thì không bao giờ có thể chấp nhận được! Khi một ý niệm nào đó về Thượng Đế là cội nguồn phát sinh những hành vi tội phạm thì đó là một dấu chứng cho thấy rằng ý niệm ấy đã trở thành một ý thức hệ.

 

11. Tuy nhiên, hôm nay hoà bình không chỉ bị đe doạ bởi sự xung đột giữa những quan điểm giản lược về con người, nói cách khác, giữa những ý thức hệ khác nhau. Nó cũng còn bị đe dọa bởi thái độ dửng dưng đối với điều tạo nên bản tính đích thực của con người. Nhiều người thời nay đúng thực  là đã chối bỏ sự hiện hữu của một bản tính nhân loại đặc thù, và như vậy họ mở cửa đón nhận  những lí giải kì quái nhất về những gì thiết yếu tạo nên hữu thể con người. Ở đây cũng cần phải minh định thêm: một quan điểm “khiếm khuyết” nào đó về con người sẽ nhường chỗ cho bất cứ quan niệm nào nảy sinh, cho dẫu có kì lạ nhất, thì chỉ hướng về hoà bình một cách giả dối. Thực tế, nó cản trở sự đối thoại chân chính và mở đường cho những áp chế bá quyền, cuối cùng bỏ mặc con người vô phương tự vệ, và như một hậu kết, dễ trở thành mồi ngon cho áp bức và bạo lực.

 

 Nhân quyền và những tổ chức quốc tế

 

 12. Một nền hoà bình đích thực và bền vững đòi phải có sự tôn trọng những quyền con người. Tuy nhiên nếu những quyền này lại đặt nền tảng trên một quan niệm bất túc về con người, thì làm sao chính chúng lại không tỏ ra yếu kém? Ở đây chúng ta có thể nhận thấy quan niệm của học thuyết tương đối về nhân vị tỏ ra thiếu sót nặng nề như thế nào khi nó biện minh và bảo vệ những quyền của nó. Khó khăn trong trường hợp này là hiển nhiên: những quyền  đưa ra là tuyệt đối, còn cái nền đặt lên làm điểm tựa lại chỉ là tương đối. Chúng ta có thể tự hỏi, khi gặp phải những đòi hỏi “phiền toái” đặt ra bởi những quyền này quyền nọ, thì người ta sẽ tiếp tục tìm hiểu để tiến hành hay người ta sẽ quyết định gạt bỏ? Nếu được đăt trên những đòi hỏi khách quan về một bản tính đã được Đấng Tạo Hoá phú ban cho con người, thì những quyền thuộc về họ có thể được khẳng định mà không lo sợ là mâu thuẫn. Vả lại, không cần phải lặp lại rằng quyền lợi cũng bao hàm những bổn phận tương ứng. Về vấn đề này, ông Mahatma Gandhi đã phát biểu thật chí lí: “Nếu được một Sông Hằng quyền lợi thì cũng có một núi Hi Mã Lạp Sơn bổn phận.” Chỉ khi nào những tiền đề căn bản này được làm sáng tỏ thì những quyền con người, mà ngày nay thường xuyên bị xâm phạm, mới được bảo vệ một cách thoả đáng. Nếu không được soi rọi như thế thì những lời lẽ “quyền con người” rốt cuộc sẽ được quan niệm bằng những chủ đề rất khác biệt nhau: đối với một số người, nhân vị đã được ghi ấn bằng phẩm giá bất biến và những quyền của họ là luôn luôn hợp pháp, ở mọi nơi và cho mọi người; còn đối với những người khác nhân vị chỉ có một phẩm giá khả biến, và những quyền của họ chỉ là tùy biến, vì còn liên quan đến nội dung, thời gian và không gian.

 

13. Bảo vệ nhân quyền thường liên quan đến các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp Quốc, tổ chức tự đặt cho mình trách nhiệm chủ yếu là xúc tiến thực thi các quyền con người được ghi trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1948. Bản Tuyên Ngôn ấy được coi như một hình thức cam kết đạo lí đề ra cho toàn thể nhân loại. Điều này bao hàm một sự thật sâu xa, nhất là khi những quyền ghi trong Bản Tuyên Ngôn đó được tuân thủ để làm nền tảng không chỉ cho những nghị quyết được đại hội đồng thông qua, nhưng còn cho chính bản tính con người và phẩm giá bất khả xâm phạm của họ  về một nhân vị đã được Thiên Chúa tạo dựng. Do đó, điều quan trọng là các cơ quan quốc tế đừng đánh mất tầm nhìn về nền tảng tự nhiên của quyền con người. Điều này hẳn sẽ giúp họ giảm thiểu được nguy cơ, thật bất hạnh nhưng vẫn hằng tiềm ẩn, về việc chạy theo một hướng giải thích chỉ mang tính học thuyết thực chứng thuần tuý về những quyền ấy. Nếu điều đó xảy ra, những cơ quan quốc tế sẽ để mất thẩm quyền cần thiết để thực thi vai trò là những người bảo vệ những quyền căn bản của con người và của các dân tộc, điều biện minh chính yếu cho chính sự tồn tại và hoạt động của họ.

 

 Luật quốc tế nhân đạo và luật nội bộ của mỗi Quốc gia

 

 14. Nhìn nhận rằng có những quyền con người bất khả tiếm đoạt liên quan đến bản tính chung của loài người đưa đến việc thiết lập một hệ thống luật quốc tế nhân đạo mà mỗi quốc gia đều cam kết tuân thủ dù cả khi xảy ra chiến tranh. Nhưng bất hạnh thay, chẳng cần phải nói tới những trường hợp đã xảy ra trong qúa khứ, điều này vẫn không được thực thi một cách như nhất trong một số tình huống chiến tranh gần đây. Chẳng hạn như trường hợp xung đột xảy ra cách đây mấy tháng tại miền nam Li- băng, nơi mà nhiệm vụ “bảo vệ và cứu giúp những nạn nhân vô tội” và tránh gây thiệt hại cho các thường dân hầu như đã bị bỏ qua. Tình cảnh thật thương tâm ở Li- băng và hình thái những vụ xung đột mới, nhất là từ khi nạn đe doạ khủng bố mở rộng những hình thức bạo lực hoàn toàn mới, đòi hỏi công đồng quốc tế phải tái khẳng định luật quốc tế nhân đạo, và áp dụng vào mọi tình huống xung đột vũ trang hiện nay, bao gồm cả những tình huống mà hiện nay luật quốc tế chỉ mới dự trù. Hơn nữa, tai hoạ của chủ nghĩa khủng bố đòi hỏi phải có một sự suy nghĩ thấu đáo về những giới hạn đạo đức liên quan đến việc hạn chế việc sử dụng những phương pháp tối tân để bảo đảm an ninh quốc gia. Càng ngày những cuộc chiến tranh không còn được tuyên bố, nhất là khi những cuộc chiến này lại được những  nhóm khủng bố mưu toan để quyết tâm đạt cho được mục tiêu của chúng bằng bất cứ phương tiện nào. Đứng trước cục diện bất ổn trong những năm vừa qua, các Quốc Gia không thể không nhận ra nhu cầu cần phải thiết lập những quy tắc rõ ràng hơn để ứng phó một cách hữu hiệu với tình trạng suy thoái bi thảm mà chúng ta đang chứng kiến. Chiến tranh luôn luôn chứng tỏ sự thất bại của cộng đồng quốc tế và là sự mất mát nặng nề đối với nhân loại. Dù vận dụng mọi nỗ lực mà chiến tranh vẫn cứ xảy ra thì ít nhất những nguyên tắc cốt yếu của nhân loại và những giá trị nền tảng về sự sinh tồn của mọi công dân phải được bảo toàn; những quy tắc hành xử phải được thiết lập để hạn chế hết sức có thể những thiệt hại và để giúp làm vơi giảm những đau khổ của thường dân cùng những nạn nhân của các cuộc xung đột (7).

 

15. Một vấn đề khác đang gây ra quan ngại, đó là ý đồ thủ đắc các vũ khí hạt nhân , mới được phát hiện tại một số Quốc Gia. Điều này càng gia tăng bầu khí bất an vốn đã lan rộng, cũng như mối lo sợ về khả năng xảy ra thảm hoạ nguyên tử. Chúng ta bị đưa ngược trở lại thời điểm đầy những sợ hãi và âu lo trong giai đoạn “chiến tranh lạnh”. Khi giai đoạn đó kết thúc người ta hi vọng rằng hiểm hoạ nguyên tử dứt khoát đã bị loại bỏ và kết cuộc thì nhân loại có thể thở phào nhẹ nhõm. Về điểm này lời nhắc nhở của Công Đồng Vatican II thật hợp thời biết bao: “Mọi hành động hiếu chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi nguyên cả một thành phố hay những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó là một tội ác chống lại Thiên Chúa và chính con người, điều đáng phải cực lực và không ngần ngại kết án (8).” Thật là bất hạnh, những bóng mây đen vẫn cứ tiếp tục phủ kín bầu trời của nhân loại. Con đường để đảm bảo một tương lai hoà bình cho tất cả mọi người không chỉ được tìm thấy trong sự đồng thuận của quốc tế về việc cấm sản xuất vũ khí hạt nhân, mà còn trong thái độ cùng quyết tâm tìm cách giải trừ và gỡ bỏ toàn bộ các vũ khí đó. Ước mong có nhiều cố gắng được thực hiện để đi đến việc thương thảo nhằm đạt đến những mục tiêu này! Vận mệnh của toàn thể gia đình nhân loại tuỳ thuộc vào đó!

 

 Giáo Hội bảo vệ sự siêu việt của nhân vị

 

16. Sau cùng, tôi muốn khẩn khoản lên tiếng với toàn thể Dân Chúa: ước gì mỗi Kitô hữu hãy dấn thân kiên trì xây dựng hoà bình và ra sức bảo vệ phẩm giá của nhân vị cũng như những quyền bất khả xâm phạm của con người. Người Kitô hữu tri ân Chúa đã kêu mời họ gia nhập Giáo Hội  Chúa, là “dấu chỉ và người bảo vệ chiều kích siêu việt của nhân vị (9)” trong thế giới, sẽ không ngừng cầu xin Chúa ban sự thiện hảo căn bản của hoà bình, là điều hệ trọng hàng đầu trong cuộc sống mỗi người. Hơn nữa, họ sẽ cảm thấy tự hào được phục vụ cho hoà bình với sự tận tâm qủang đại khi giúp đỡ các anh chị em của họ, nhất là những người vừa phải chịu cảnh nghèo túng và thiếu thốn lại còn bị tước mất cả điều quý giá của hoà bình. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta rằng “Thiên Chúa là tình yêu ” (1 Ga 4, 8) và ơn gọi cao quý nhất của mỗi người là tình yêu. Trong Chúa Kitô chúng ta có thể tìm thấy lí do tối hậu để trở nên những người quyết tâm bảo vệ phẩm giá con ngừơi và là những người dũng cảm xây dựng hoà bình.

 

17. Và ước mong mỗi người tín hữu hãy kiên cường góp phần vào việc phát huy một nền nhân bản toàn diện đích thực phù hợp với những giáo huấn của các Thông Điệp Populorum Progressio Sollicitudo Rei Socialis, mà chúng ta chuẩn bị cử hành ngày kỉ niệm lần thứ bốn mươi và thứ hai mươi trong năm nay. Vào đầu năm 2007, tôi tha thiết dâng lời cầu nguyện cho toàn thể nhân loại lên Nữ Vương Hoà Bình, Thân Mẫu Chúa Giêsu Kitô, “hoà bình của chúng ta” (Ep 2, 14), mà chúng ta đang cùng nhau hướng tới với lòng tràn đầy hi vọng, dẫu biết bao hiểm nguy và khó khăn vẫn đang vây quanh chúng ta. Xin Mẹ Maria chỉ cho chúng ta, trong Con của Mẹ, con đường dẫn đến hoà bình và soi sáng con mắt chúng ta để chúng ta có thể nhận ra dung mạo Chúa Kitô trong khuôn mặt của mỗi con người, là trọng tâm của hoà bình!

 

 

 Từ Vatican, 8 tháng Mười Hai, 2006

 

 BENEDICTUS PP. XVI

 

Mục lục

 

 

 x. Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo, 357.

 Bài giảng 169, 11, 13: PL 38, 923

Số 3.

 Bài giảng tại Islinger Feld, Regensburg, 12 tháng Chín 2006.

x. Bộ Giáo Lí Đức Tin, Thư gửi các Giám mục Giáo Hội Công Giáo về việc cộng tác giữa người nam và người nữ trong Giáo Hội và trên thế giới (31 tháng Năm 2004), 15-16.

Số 38.

Về vấn đề này, Giáo Lí Giáo Hội Công Giáo đưa ra những tiêu chuẩn khe khắt và chính xác: x. 2307- 2317.

Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes , 80.

 Ibid., s. 76.

 

 

 Linh mục Giuse Ngô Quang Trung chuyển n

 

Giới Thiệu Sứ Ðiệp của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI cho ngày Quốc Tế Cầu Nguyện Cho Bệnh Nhân 11 tháng 2 năm 2007.

Tin Vatican (Vat. 13/12/2006) - Ngày 13 tháng 12 năm 2006, Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh đã giới thiệu Sứ Ðiệp của Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI cho ngày Quốc Tế Cầu Nguyện cho Các Bệnh Nhân lần thứ 15, sẽ được cử hành tại Hán Thành (Seoul), Hàn Quốc, vào ngày 11 tháng 2 năm 2007, ngày lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức. Sứ điệp này đã được Ðức Thánh Cha ký vào ngày 8 tháng 12 năm 2006. Trong Sứ Ðiệp, Ðức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc cần thiết để có một chính sách tôn trọng mạng sống của con người và đặc biệt đối với những người gặp phải những chứng bệnh nan y bất trị hoặc với những người trong thời gian cận kề với cái chết.

Ðức Thánh Cha trình bày trong sứ điệp về hai loại bệnh nhân trên thế giới đang trong tình trạng không có thuốc men để được chữa trị: "Mặc dầu ngành y khoa ngày nay đã càng ngày càng tiến bộ, nhưng vẫn còn có những chứng bệnh nan y cho đến nay vẫn chưa có những phương thuốc thích hợp để trị liệu, chúng ta vẫn còn thấy khắp nơi trên thế giới, rất nhiều những bệnh nhân đang đau khổ trước những chứng bệnh nan y bất trị của họ. Ngoài ra, vẫn còn có rất nhiều những bệnh nhân nghèo khổ khác đang trong tình trạng không có đủ khả năng để được chăm sóc điều trị về y tế, những người này cũng được coi như là những người không có thuốc men để được chữa trị".

Ðức Thánh Cha kêu gọi thế giới hãy thiết lập những trung tâm y tế trị liệu, không những chỉ trị liệu về phần thân xác bệnh tật của họ mà còn cần phải để ý đến phần tinh thần đang cần đến những nguồn an ủi để làm giảm bớt những khổ đau và buồn sầu của họ. Ðây chính là quyền lợi căn bản của mỗi một con người, họ cần phải được chăm sóc cách chu đáo trong thời gian họ đang mắc phải những bệnh tật.

Kết thúc sứ điệp, Ðức Thánh Cha khuyên mọi người, đặc biệt là các bệnh nhân, hãy sống kết hiệp với Ðức Giêsu và suy tư về mầu nhiệm thập giá của Ngài, Ðấng vì muốn cứu chuộc nhân loại nên đã chấp nhận chịu mọi đau khổ, bị đóng đinh và bị chết trên Thập Giá. Ðức Thánh Cha nói tiếp, "hãy phó thác và sống tin tưởng vào Ðức Kitô, vì tất cả mọi sự, cuộc sống của con người nằm trong bàn tay nhân từ đầy yêu thương của Ngài".

 

(Joseph Trương)

Mục lục

 

Thư Mục Vụ Mùa Giáng Sinh 2006 của Ðức Cha Micae Hoàng Ðức Oanh, Giám Mục Giáo Phận Kontum.

 

Tòa Giám Mục Kontum

56 Trần Hưng Ðạo - Kontum - abrahamvn@yahoo.ca

 

Kính gởi: Anh em linh mục

Anh chị em tu sĩ và toàn thể Gia đình Giáo phận Kontum.

 

Anh chị em thân mến,

Chúng ta đang sống Mùa Vọng, Mùa chuẩn bị đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh. Năm nay Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã công bố Thư Mục Vụ với chủ đề "Sống đạo hôm nay" như một tiếp nối Năm "Sống Thánh Thể" (Thư mục vụ năm 2004) và "Sống Lời Chúa" (Thư Mục vụ năm 2005). Sống đạo ở đây được hiểu là "Yêu thương & Phục Vụ". Yêu thương "như Chúa yêu thương" cần được thể hiện qua đời sống phục vụ cụ thể của mỗi người.

Trong niềm hân hoan mừng Ðại Lễ, tôi gửi tới gia đình giáo phận lời cầu chúc "Giáng Sinh 2006 & Năm Mới 2007 - Ðinh Hợi Bình An Của Chúa Hài Ðồng" cùng vài gợi ý liên quan tới chủ đề sống đạo này.

1. Giáng sinh với cộng đồng dân Chúa.

Cần chuẩn bị thật tốt! Mọi chuẩn bị như làm hang đá, trang trí đèn nến, diễn nguyện, nghi lễ, thánh ca... tất cả đều nhằm hướng tới và làm nổi bật ý nghĩa Thánh Lễ Giáng Sinh, giúp mọi người đến gặp Chúa Hài Ðồng. Giờ canh thức, giờ diễn nguyện cần nhẹ nhàng, vắn gọn, đượm bầu khí cầu nguyện, bằng không sẽ trở thành một thứ lễ hội mang tính văn nghệ. Ðừng làm lu mờ Thánh Lễ.

2. Giáng sinh với các Học sinh sinh viên Công giáo.

Lễ Chúa Giáng Sinh là ngày của tình yêu, của gặp gỡ, của hoà bình; là ngày phân chia lịch sử nhân loại thành hai thời trước và sau công nguyên. Vào ngày này, khắp nơi trên thế giới, các công sở nghỉ việc, các học sinh nghỉ học, kể cả các chiến trường cũng ngưng tiếng súng. Thế mà, các em sinh viên học sinh kitô giáo chúng ta bao lâu nay rất khổ tâm không được hưởng niềm vui Chúa Giáng Sinh trọn vẹn, vì phải đi thi, đi học hay đi lao động vào ngày này! Nhiều phụ huynh trách tại sao các giáo hội không lên tiếng? Tại sao lại không thấy một nền giáo dục coi nhẹ vấn đề tâm linh sẽ là một thảm hoạ cho con người, cho xã hội? Vì quyền lợi và nhu cầu tâm linh của người có đạo, vì giá trị của một nền giáo dục toàn diện, mọi người có đạo đều ước mong chuyện thi cử hay học tập vào ngày Chúa Giáng Sinh sẽ không còn xảy ra như bấy lâu nay. Hãy kiên tâm! Hãy cầu nguyện!

3. Giáng sinh với chủ đề "Sống Ðạo: Yêu thương & Phục Vụ".

Tôi đề nghị tại mỗi nhà thờ trong giáo phận có thể ghi câu "Sống đạo: Yêu thương & Phục vụ" như một nhắc nhở và quyết tâm sống triệt để Thư Mục vụ của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam. Cụ thể, chúng ta mừng lễ Giáng Sinh năm nay với 2 việc nhỏ sau đây như những chứng tá sống động của đời sống đạo:

* Về ăn mặc: Từ nay, mỗi khi đi tham dự thánh lễ, chúng ta, cách riêng các bạn trẻ, nhớ ăn mặc thật đẹp, nhưng đứng đắn, lịch sự và kín đáo.

* Về chuyện đi lại: Nghiêm túc giữ luật giao thông và nhắc nhở người khác hiểu và tuân giữ. Vì hạnh phúc của bản thân, của gia đình, của xã hội. Vì Tin Mừng đòi buộc.

Anh chị em thân mến,

Cầu chúc cho nhau Mùa Chúa Giáng Sinh và Năm Mới mỗi người đều được chuẩn bị trở thành những hang đá sống động.

 

Kontum, ngày 12 tháng 12 năm 2006

+ Micae Hoàng Ðức Oanh

Giám Mục Giáo Phận Kontum

Mục lục

 

Text Box: TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

 

Lời cầu nguyện Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI dâng lên Mẹ Maria

Lời cầu nguyện Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI dâng lên Mẹ Maria, khi đến đặt vòng hoa dưới chân tượng Mẹ Vô Nhiễm tại quảng trường Tây Ban Nha, Roma, chiều ngày 8 tháng 12 năm 2006.

Tin Roma (Vat, và Apic 8/12/2006) - Lúc 15 giờ 40 phút chiều thứ Sáu mùng 8 tháng 12 năm 2006, ngày lễ Mẹ Maria Vô Nhiễm, Ðức Thánh Cha Bênêđitô XVI rời điện Vatican, để đến đặt Vòng Hoa và Cầu Nguyện dưới chân Tượng Mẹ Maria Vô Nhiễm, tại quảng trường Tây Ban Nha, nằm ờ Trung Tâm Roma, và sát bên cạnh Trụ Sở Bộ Truyền Giáo của Toà Thánh Vatican. ÐTC đã được Ông Thị Trưởng Roma đón tiếp, với sự hiện diện của Ðức Hồng Y Ivan Dias, Tổng Trưởng Bộ Truyền giáo, và đông đảo dân chúng.

ÐTC làm phép vòng hoa để được đem đặt dưới chân tượng Mẹ Vô Nhiễm, rồi ngài dâng lên Mẹ lời nguyện, xin Mẹ giúp các tín hữu biết noi gương Mẹ thưa Vâng tuân phục Thánh Ý Thiên Chúa, và biết can đảm nói không trước những cám dỗ của quyền hành, tiền bạc và thú vui, biết nói không trước những cám dỗ của những lợi lộc bất chính, trước những tham nhũng và giả hình, trước sự ích kỷ và bạo lực. Ðức Thánh Cha đã cầu nguyện như sau:

 Lạy Mẹ Maria, Mẹ Ðồng Trinh và Vô Nhiễm Nguyên Tội,

Năm nay cũng vậy, với tâm tình con thảo, chúng con lại đến gặp nhau dưới chân tượng Mẹ, để dâng lên Mẹ lời tôn vinh của cộng đoàn kitô và của thành phố Roma. Chúng con dừng lại cầu nguyện nơi đây, thể theo truyền thống đã được bắt đầu bởi các vị giáo hoàng tiền nhiệm, trong ngày long trọng phụng vụ cử hành lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, mầu nhiệm mà từ đó phát sinh niềm vui và hy vọng cho tất cả mọi người được ơn cứu rỗi. Chúng con kính chào Mẹ và khẩn cầu Mẹ bằng những lời của Sứ Thần gọi Mẹ "Ðấng Tràn Ðầy Ơn Phước" (Lc 1,28); "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất mà chính Thiên Chúa đã gọi Mẹ từ muôn thuở.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Ðấng tràn đầy ơn phước, tràn đầy tình thương Thiên Chúa ngay từ giây phút đầu tiên của đời, Mẹ được Thiên Chúa quan phòng tiền định làm Mẹ của Ðấng Cứu Thế và được liên kết mật thiết với Ðấng cứu thế trong mầu nhiệm cứu chuộc. Trong hồng ân Mẹ được đầu thai vô nhiễm nguyên tội, được chiếu sáng ơn gọi của những môn đệ Chúa Kitô, những kẻ được gọi trở nên thánh thiện và vô tì ố trong tình yêu (x. Eph 1,4) nhờ ân sủng Chúa ban cho. Nơi Mẹ chiếu sáng phẩm giá của mọi con người, luôn quý giá trước nhan Ðấng Tạo Hoá. Lạy Mẹ chí Thánh, ai nhìn về Mẹ thì không đánh mất sự an bình, cho dù những thử thách cuộc đời có thể gay gắt đến thế nào đi nữa. Cho dù phải ưu buồn vì kinh nghiệm tội lỗi làm vẩn đục phẩm vị những con cái Chúa, nhưng ai chạy đến với Mẹ đều khám phá lại nét đẹp của sự thật và tình thương, và gặp lại con đường dẫn về nhà Cha.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Ðấng đầy ơn phước, khi Mẹ đón nhận những dự án của Ðấng Tạo Hoá bằng lời thưa Vâng, Mẹ đã mở ra cho chúng con con đường cứu rỗi. Nơi trường học của Mẹ, xin Mẹ hãy dạy chúng con biết nói lên lời thưa vâng của chúng con xin tuân phục thánh ý Chúa. Lời thưa vâng này kết hiệp chúng con với lời thưa Vâng của Mẹ, một lời thưa Vâng không chút dè giữ và không vương bóng tối, lời thưa Vâng mà Thiên Chúa Cha trên trời đã muốn là Ngài cần đến, để sinh ra Con Người Mới, Chúa Kitô, Ðấng cứu thế duy nhất của thế giới và của lịch sử. Xin Mẹ hãy ban cho chúng con lòng can đảm nói "không" trước những cám dỗ gạt gẩm của quyền hành, tiền bạc, và thú vui; xin hãy ban cho chúng con lòng can đảm nói "không" trước những lợi lộc bất chính, trước những tham nhũng và giả hình, trước ích kỷ và bạo lực. Nói "không" với Thần Dữ, hoàng tử lường gạt của thế gian này. Thưa "vâng" với Chúa Kitô, Ðấng hủy diệt quyền lực của sự dữ bằng sức mạnh của tình yêu. Chúng con biết rõ rằng chỉ những tâm hồn đã thống hối trở về với Tình Yêu, là Thiên Chúa, thì mới có thể xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Ðấng đầy tràn ơn phứớc! Danh Thánh Mẹ là bảo đảm an toàn cho niềm hy vọng của tất cả mọi thế hệ. Ðúng vậy, bởi vì, như đại thi sĩ Dante đã viết, Mẹ là nguồn mạch sống động mang đến niềm hy vọng cho chúng con, những con người mang thân phận phải chết" (Par. XXXIII,12). Nơi nguồn mạch này, nơi nguồn mạch của Thánh Tâm Vô Nhiễm Mẹ, một lần nữa, chúng con chạy đến, như người lữ hành đầy tin tưởng, để múc lấy đức tin và sự an ủi, niềm vui và tình thương, sự an toàn và hoà bình.

Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh đầy ơn phước, xin hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ dịu dàng và thương chăm sóc cho tất cả những cư dân của thành phố này, ngõ hầu tinh thần đích thực của tin mừng linh động và hướng dẫn nếp sống của họ; xin hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ và là Ðấng tỉnh thức canh chừng cho đất nước Italia và cho Âu Châu, ngõ hầu từ những gốc rễ kitô ngàn xưa, các dân tộc biết múc lấy nhựa sống mới, để xây dựng hiện tại và tương lai của họ. Xin hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ đầy tình thương dự phòng và nhân từ cho toàn thế giới, ngõ hầu, trong sự tôn trọng phẩm giá con người và trong việc từ chối mọi hình thức bạo lực và bóc lột, được xây lên những nền tảng vững chắc cho nền văn minh tình thương. Xin hãy tỏ ra Mẹ là người Mẹ đặc biệt cho tất cả những ai cần đến Mẹ nhiều nhất: những người không được ai bảo vệ, những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội, những con người bị vứt bỏ đi, những nạn nhân của một xã hội rất thường hy sinh con người cho những mục tiêu và những lợi lộc khác.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hãy tỏ ra là Mẹ của tất cả mọi người; xin Mẹ hãy trao ban cho chúng con Chúa Kitô, niềm hy vọng của thế giới! Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ðấng tràn đầy ơn phước, xin hãy tỏ ra Mẹ là Mẹ chúng con. Amen.

 

(Bản dịch Việt ngữ của Ðặng Thế Dũng)

Mục lục

 

 

 

Suy Niệm Lễ Giáng Sinh 2006 :

NHỊP CẦU ĐÊM THÁNH

 

Hôm nay, một Hài Nhi sinh ra, đất trời như tưng bừng hoan hỉ, vũ trụ như tràn nhập ánh sáng, niềm vui rộn rã và tình yêu đằm thắm bỗng tràn nhập lòng người. Hài Nhi, đó là ai ? Lời sứ thần đã loan báo : “ Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người ;Anh em sẽ gập thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ “ ( Lc 2, 11- 12).

 

Ngày mai, Người lại “ra đi” ? Đất trời như rung chuyển, muôn tinh tú lịm tắt, ánh sáng nhạt nhoà và vũ trụ như chìm trong bóng đêm. Lời Người thì thầm bên tai các môn đệ trung tín : ‘người ta cứ dấu này mà nhận biết các conlà môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau “  ( Ga 14, 34)

 

Hôm nay hay ngày mai, tình yêu vẫn luôn là dấu chỉ, là điểm hẹn để con người nhận biết Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người. Ngài là Alpha và Omega, là khời đầu của Tình Yêu và kết thúc trong Tình Yêu, vì bản chất của Ngài là Thiên Chúa của Tình yêu. ( 1Ga 4, 8)

 

Tình yêu của Con Thiên Chúa dành cho con người là một tình yêu sống động cụ thể, không phải là một thứ tình yêu bằng lời mà lắm khi con người lạm dụng, lừa dối và gây khổ đau cho nhau.

 

Thật thế, có ai hiểu được mầu nhiệm của Con Thiên Chúa trong đêm Hồng Phúc Giáng sinh, đêm mà cả đất trời như vỗ tay reo mừng vì tình trời với đất được kết ước se duyên, đêm mà Con Thiên Chúa  hạ mình thẩm sâu để gặp gỡ con người và cho con người trở thành   Con Thiên Chúa ? Một tình yêu vượt quá trí khôn của loài người. Một tình yêu mà con người chỉ cảm nhận chứ không thể dùng ngôn từ để giải thích. Một tình yêu chỉ vì hạnh phúc cho kẻ mình yêu “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình “ ( Ga 15, 13)

 

Đêm hôm nay, dù cho cảnh tượng Giáng Sinh của một thời đại văn mình, kỹ thuật với biết bao hình ảnh phong phú, kiểu dáng tân kỳ , ánh đèn muôn màu lấp lánh lung linh, ấy vậy mà tất cả chúng dường như không phủ lấp được vẻ thanh bình nhẹ nhàng và huyền nhiệm cao siêu khi được ngắm nhìn Hài Nhi, một hài nhi với đôi tay luôn mở rộng như muốn trao ban tất cả và mời gọi thiết tha.

 

Một Hài Nhi, nhỏ bé mong manh, nhẹ nhàng như làn gió thoảng, âm thầm lặng lẽ như đoá hoa nở trong đêm khuya. Cái âm thầm và lặng lẽ đó như muốn tuôn tràn trên gia đình nhân loại sứ điệp của Niềm Vui – Bình An “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “ ( Lc 2, 14)

 

Thế nhưng đã hơn 2000 năm, dường như nhân loại vẫn đang sống trong bất an, sợ hãi. Bất an bởi biết bao cảnh đổ máu vì tôn giáo, sắc tộc, quyền lợi và địa vị xảy ra đó đây trên thế giới. Bất an trong xã hội và gia đình khi các chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, giới trẻ có khuynh hướng ngày càng đánh mất chính mình bởi các hấp lực của xã hội đương đai và “chất bột trắng“ huỷ hoại cuộc đời. Bất an trong chính mỗi cá nhân khi vẫn còn đó những hố sâu ngăn cách của lòng đố kỵ, ghét nghen, thành kiến…Những cuộc nội chiến giữa ánh sáng và bóng đêm.

 

Lạy Chúa Hài Nhi.

 

Có biết bao mùa Giáng sinh cứ đến, cứ đi, rồi lại đến. Có biết bao kiểu mẫu hang đá lại được thiết kế để chuẩn bị cho tương lai. Thế nhưng, có những hoạch định gì được thực hiện  trong đời sống của mỗi người Kitô hữu, chúng con khi đón mừng lễ Giáng sinh năm nay,  hay cũng giống như mọi năm, sau lễ giáng sinh là chúng xếp lại  những “quả châu ước vọng” “ngọn nến quyết tâm” và cả những “cây thông hăng hái”

 

Nguyện xin Tình Yêu của Hài Nhi Giêsu biến đổi chúng con và ước gì lời nguyện cầu trong đêm Thánh hôm nay sẽ giúp chúng con “ tái sinh “ trong cuộc sống ngày mai.

 

 

Lạy Chúa Hài Nhi

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao

Để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ

Xin cho thật đầy ắp Chúa

Để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ

Để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.

Xin Chúa ngự trong con thật sống động.

Để con không phải là con

Mà chính là Ngài đang sống. Amen

 

Nữ tu Vũ Thu Thuỷ - Dòng MTG Qui Nhơn.

Mục lục

 

 

LỄ GIÁNG SINH

Thánh Lễ Ban Ngày

 

Tin Mừng Ga 1, 1-18

 

Đây là một bài Thánh thi về Đức Kitô Ngôi Lời. Một bài tuyên xưng đức tin về sự tiền hữu (pré-existence) của Đức Kitô. Một bài thi ca độc lập, có lẽ có trước Gioan. Gioan đã tu sửa và sử dụng làm tiền đề (Prologue) cho quyển Phúc âm. Phần Tiền Đề ( Ga 1, 1-18) Phúc âm thứ IV này được chia làm 4 đoạn :

 

Giới thiệu Ngôi Lời (1, 1-5 ) : Chủ đề chính “Christo quasi Deo ”

 

Sau một thời gian dài Thiên Chúa là Đấng thinh lặng. Bây giờ Ngài nói, có nghĩa là Ngài đã nguôi cơn giận quay mặt lại với loài người và bắt đầu nói Lời Cứu Độ.

 

Lời của Thiên Chúa hiện hữu trước và sáng tạo, hướng về Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Cộng đoàn Tiên khởi đã tuyên xưng : Ngôi Lời sáng tạo ( 1cr 8,6). Ngôi Lời sự sống (Ga 5,2; 11,25 ). Ngôi Lời ánh sáng (Ga 8, 12), Người sẽ chiến thắng mọi quyền lực của bóng tối ( 12, 31; 16,11.33; 1Ga,4)

 

 Gioan Tẩy Giả (1, 6-8) :

 

 Nếu đoạn 1 có thể cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh với ngoại giáo ( chống các Thần Sáng tạo ), với Do Thái giáo (Đức Kitô là sự sống) và với thuyết Nhị nguyên của nhóm Manichê (Đức Kitô là ánh sáng thật). Đoạn 1, 6-8 này có lẽ cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh giữa môn đệ của Gioan Tẩy giả và cộng đoàn tiên khởi (Ga 3, 22-4,3; Cv 19, 1-7)

 

 Cộng đoàn Tiên khởi khẳng định về Gioan Tẩy Giả : “Ông không phải là ánh sáng, ông làm chứng về ánh sáng .” Ông làm chứng trước đại diện Công nghị (1, 19-28), trước dân Do thái (1, 31-34) và trước môn đệ của mình ( 1, 35-37).

 

 Ánh sáng đến trần gian (1, 9-13) :

 

Ánh sáng chiếu soi mọi người : đây là ánh sáng chiến thắng bóng tối, cho thấy rõ thân phận con người, đồng thời, cũng cho thấy rõ vinh quang Thiên Chúa. Thánh thi công nhận ưu thế của Israel, nhưng cũng cho thấy sự khước từ của họ. Họ là những người sợ ánh sáng. Ai đón nhân Ánh Sáng thì Ánh Sáng ban cho họ quyền làm Con Thiên Chúa.  Từ nay chỉ có Ngôi Lời là phương thế duy nhất để Thiên Chúa ban ơn cứu độ.

 

Đoạn IV : 1, 14-18

 

 Ba đoạn đầu chỉ để chuẩn bị cho đoạn bốn này. Ba đoạn đầu chủ từ ở ngôi thứ 3, ngoại trừ câu 14 : “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”, chủ từ đổi sang ngôi thứ 1 số nhiều. Đây là bản tuyên xưng đức tin mang giọng ca tán tụng (Doxologie). Cộng đoàn ca tụng hồng ân khôn tả của Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô, nơi Người vinh quang Thiên Chúa đã xuất hiện giữa nhân loại.

 

 

Chúa Giêsu, Anh Sáng Muôn Dân.

 

 

1. Thực tại bóng tối cuộc đời.

 

Trong đời sống, con người hôm nay đang phải đối diện với những thực tại cuộc sống như là những bóng tối bao phủ hiện tại và tương lai: tương lai bấp bênh; đời sống kinh tế khó khăn; cuộc sống quá cơ cực; sự ác, sự xấu, bất công đang thắng thế; những lối sống ích kỷ thụ hưởng đang phát triển … Khiến cho nhiều người như mất định hướng tương lai, sống không có lý tưởng. Cuộc sống chỉ đơn giản là tiền tiền và tiền để rồi chơi chơi và chơi. Cho nên, chỉ là làm làm và làm. Cảm thấy mệt mỏi, chán nản, lo âu sợ hãi trước tương lai. Mất niềm tin vào cuộc sống, vào bản thân, vào tình yêu. Bên cạnh đó vẫn cứ vang lên những câu hỏi về ý nghĩa nhân sinh :  Tại sao con người sinh ra? Tại sao lại phải đau khổ? Hạnh phúc là gì? Đâu là ý nghĩa đích thực của cuộc đời? Chết con người đi về đâu? Những câu hỏi cứ mãi mãi xoáy vào tận tâm khảm mỗi người. Tại sao tôi phải sống? Sống để làm gì? Sống để được gì? Đời là bể khổ.

 

Những vấn nạn về Thượng đế, về Thiên Chúa: Ngài có Không? Ngài là ai? Ngài tương quan thế nào vơi con người? Ngài có thực sự mang lại ánh sáng cho tôi không? Vẫn cứ mãi là khắc khoải lo âu trong bóng tối cuộc đời. Làm sao có được câu trả lời xác đáng; làm sao thấy ánh sáng và bước đi trong ánh sáng ?

Những thực tại ánh sáng Mà con người hôm nay dõi bước.

 

Cuộc sống bị bao phủ bởi bóng đêm dày đạc, nên ai ai cũng đi tìm ánh sáng. Họ đi tìm ánh sáng của nền văn minh khoa học kỹ thuật : Khoa học sẽ trả lời tất cả, không có gì có thể che giấu dưới ánh sáng của khoa học. Khoa học làm được nhiều điều kỳ diệu nhưng có những vấn nạn về chiến tranh, đau khổ, hạnh phúc … thì xem ra khoa học lại dừng bước trước bóng tối. Có người lại đi tìm ánh sáng của những triết thuyết, trào lưu xã hội. Thuyết thực dụng : Nghĩ làm chi cho mệt, hãy thụ hưởng đi. Cuộc đời có mấy đâu. Chết là hết và như thế cũng đi vào ngõ cụt. Rồi có những ánh sáng cũng léo sáng lên soi dẫn mọi người như ánh sáng của các tôn giáo, những truyền thống đạo đức. Ăn ngay ở lành, làm việc thiện … Nhưng họ lại cho là cổ lỗ sĩ, yếm thế, nhu nhược với thời buổi bon chen này. Vẫn chưa có lời đáp thỏa mãn trọn vẹn. Vẫn cứ phải lầm lũi trong bóng tối.

 

2. Đức Giêsu Là ánh sáng.

 

Có ánh sáng đích thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế  gian này. Ánh sáng đích thực đó chính là Đức Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngài là ánh sáng vì soi sáng cho thấy được bản chất của con người, của cuộc sống. Con người là con cái Thiên Chúa. Cuộc sống là một hành trình đi về nhà Cha trên trời, Hành trình được đi bằng tình yêu của chính Ngài. Ngài là ánh sáng vì cho thấy rõ Thiên Chúa là ai. Thiên Chúa là Cha nhân ái. Đối diện với Chúa Giêsu ai nấy sẽ khám phá ra huyền nhiệm cuộc đời mình. Con người là một thực tại có giá trị cao quí trước mặt Thiên Chúa. Con người có trách nhiệm xây dựng một thế giới công lý và hòa bình, xây dựng một nền văn minh tình thương, Để qua đó nhân loại thực sự tiến về nhà Cha nhân lành sống vinh phúc vĩnh cửu với Người. Con nguời chúng ta, mỗi người không phải là thứ bỏ đi, không thể là cặn bã của xã hội. Mà là tác nhân quan trong xây dựng thế giới xây dựng Giáo hội ngày một tốt đẹp hơn. Chính trong Đức Giêsu Kitô chúng ta được bước đi trong ánh sáng và tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.

 

 

Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng

Mục lục

 

 

Lễ Giáng Sinh năm nay: Tham dự Thánh lễ nào giữ được hai luật buộc?


 

Theo lịch Phung vụ năm nay (2007) :

- Chúa nhật thứ tư Mùa Vọng nhằm ngày 24-12-2006,

- Lễ Giáng sinh luôn luôn vào ngày 25 tháng 12.

Nếu ta tham dự một Thánh lễ (Misa) thuộc lễ nghi Công giáo sau 16 giờ (tức là sau 4 giờ chiều) ngày Chúa nhật 24-12-2006 và xong trước 24 giờ cùng ngày thì ta giữ được hai luật buộc: giữ Thánh lễ Misa ngày Chúa nhật và giữ ngày lễ Giáng sinh.

Những nhà buôn lớn, buôn nhỏ, hàng rong ở Việt nam, vất vả nhiều trong hai ngày cuối trươc lễ Giáng sinh năm nay, yên tâm miễn là tham dự Thánh lễ Giáng sinh tối xong trươc 24 giờ ngày 24-12-2006 là giữ được luật buộc giữ ngày Chúa nhật và ngày Giáng sinh.

Căn cứ vào Giáo luật hiện hành quy định :

Điều 1247 quy định: Die dominica aliisque diebus festis de praecepto fideles obligatione

tetentur Missam participandi… (Chúa nhật và các lễ buộc khác, các tín hữu phải tham dự Thánh lễ Misa ).

Khoản 1 điều 1248 quy định : Praecepto de Missa participanda satisfacit qui Missae assistit ubicumque celebratur ritu catholico vel ipso die festo vel vespere diei praecedentis ( Ai đã tham dự Thánh lễ Misa theo lễ nghi Công giáo bất kỳ ở đâu trong chính ngày lễ buộc hoặc chiều ngày áp lễ thì đã chu toàn luật buộc tham dự Thánh lễ Misa ).

Tóm lại, Giáo hội dạy các tín hữu :

a/ Tham dự một Thánh lễ Misa trong ngày lễ buộc: gồm các ngày Chúa nhật và mấy ngày lễ buộc khác (điều 1246 ). Ở Việt nam, Hội đồng Giám mục đã định các ngày lễ buộc : ở Huế trở vào thì có các ngày Chúa nhật và lễ Giáng sinh; ở Vinh trở ra có: các ngày Chúa nhật và Lễ Chúa Giêsu lên trời, lễ Đức Me hồn xác lên trời, lễ Các Thánh nam nữ và lễ Giáng sinh. (Thông cáo ngay 04-8-1971).

b/ Thánh lễ theo lễ nghi Công giáo (vậy lễ nghi Tin lành, Anh giáo, Chính thống giáo không hiệp thông với Đức Giáo hoàng thì không phải là lễ nghi Công giáo ).

c/ Ở bất cứ nơi nào : có thể ở Nhà thờ, nhà nguyện, ở hội trường, ơ ngoài trời, ở trên tàu,
ở trên thuyền, ở tư gia v.v.

d/ Thánh lễ Misa : có thể là Thánh lễ do một linh mục hưu mắt đã mờ được Bề trên cho phép quanh năm chỉ dùng một bản lễ về Đức Mẹ, có thể lễ ngày Chúa nhật, lễ trọng, lễ an táng, lễ cưới v.v tuỳ theo luật Phụng vụ cho phép ). Cứ tham dự một Thánh lễ Misa (nghĩa là bất cứ Thánh lễ nào của Công giáo là được vì luật chỉ đòi buộc dự một Thánh lễ Misa ).


e/ Trong chinh ngày lễ hoặc chiều ngày áp lễ.

Chiều ngày áp lễ (vespere diei praecedentis, le soir du jour précédent, on the evening of the preceding day):

- là chiều thứ bảy đối với ngày Chúa nhật,

- là chiều ngày trưôc của ngày lễ.

Lúc nào, lúc mấy giờ chiều của ngày thứ bảy, của ngày trước ngày lễ?

Giáo luật hiện hành ban hành nãm 1983 chỉ quy định tổng quát, sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo năm 1992 cũng chỉ nhắc lại hai điều kể trên của Bộ giáo luật (xem số 2180 ), không định rõ. Giáo luật đã quy định ngày: ngày là thời gian 24 giờ liên tục và bắt đầu từ nửa đêm (đ 202,I) không theo cách tính ngày từ buổi chiều như trong Cựu ước hay Giáo đoàn tiên khởi dùng.

Tuy nhiên, cũng có thể hiểu người ta đã tính ngày Chúa nhật và lễ buộc khác bắt đầu từ buổi chiều ngày trướ vào lúc 4 giờ chiều ( tức 16 giờ ). Trứớc giờ nầy, Thánh lễ cử hành có phải là Thánh lễ của Chúa nhật hoặc lễ buộc không là một nố hồ nghi ( xem In many places “evening” is understood in a broad sense as including late afternoon from about 4.00. When anticipated Masses are held before this time, it is doubtful whether the precept to attend Mass on the day of obligation has been satisfiel, James A. Coriden Thomas J. Green, Donald E. Heintscheel, The Code of canon law, Canon 931, page 661, Paulist Press, New york 1985, Tạm dịch : có nhiều nơi, từ ngữ “evening”(chiều) được hiểu theo một nghĩa rộng kể từ đoạn thời gian cuối của buổi “trưa chiều” (after noon) bắt đầu khoảng 4 giờ (16 giờ). Khi Thánh lễ được cử hành trước thời gian nầy thì có thể Thánh lễ nầy chưa phải là Thánh lễ của ngày Chúa nhật hoặc ngày lễ buộc.


Lm Fx NguyễnHùng Oánh

Mục lục

 

SỰ YẾU ĐUỐI CỦA THIÊN CHÚA

Ngắm nhìn Hài Nhi nằm trong máng cỏ, con mắt đức tin tôi thấy gì?

Trước hết, tôi nhìn thấy sự yếu đuối của Thiên Chúa.

Phụng vụ đêm Giáng Sinh mượn lời ngôn sứ Isaia để tung hô Hài Nhi Bê-lem là Đấng Cứu Tinh dũng mạnh sẽ bẻ gẫy "cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ và ngọn roi của kẻ hà hiếp," nhưng làm sao cái sứ mệnh cao cả ấy đã khởi sự tầm thường đến thế, tội nghiệp đến thế? Đấng sẽ "gánh vác quyền bính trên vai" bây giờ chỉ là một hài nhi yếu ớt cất tiếng khóc oa oa chào đời trong chốn hang lừa hôi tanh. Vẫn biết không thiếu những con người vĩ đại siêu phàm đã vươn lên từ gốc gác hèn hạ tăm tối, nhưng Đấng Cứu Tinh của chúng ta đã đi con đường ngược lại là từ bỏ nguồn gốc thần linh siêu việt của mình khi xuống thế làm người. Hài nhi nằm trong máng cỏ biểu thị sự yếu đuối của Thiên Chúa, -một sự yếu đuối mà Người đã tự ý chọn lựa. Thiên Chúa trong hình hài một bé thơ. Đừng thắc mắc tại sao Người đến trần gian là chính nhà mình (x. Ga 1, 11), mà không đến đường hoàng oai vệ nhưng lại như âm thầm lén lút để rồi bị xua đuổi như một kẻ đột nhập trái phép lãnh địa người khác? Đừng lấy làm khó chịu khi đức tin ta tuyên xưng Người là "ánh sáng thật soi chiếu mọi người" (Ga 1, 9), nhưng mặt khác ta không hề thấy ánh sáng này chói lọi để khiến mọi người phải lóa mắt thần phục (như kiểu các siêu sao âm nhạc hay bóng đá thu hút các fans của mình!). Toàn bộ cuộc đời trần gian của Chúa Cứu Thế, đã nằm trong chọn lựa ban đầu của Người rồi. Kể cả cái chết nhục nhã trên thập giá là hình phạt dành cho những tử tội thuộc hàng nô lệ.

Lòng âu yếm của Thiên Chúa

Một Thiên Chúa yếu đuối là điều trí khôn con người không thể nào hiểu và chấp nhận nổi. Mọi lý luận, mọi lô-gích đều bất lực trước nghịch lý thần linh này. Chúng ta hãy từ bỏ ngôn ngữ của lý tính ở đây và thinh lặng để cho con tim thán phục. May chi ngôn ngữ tình yêu có thể bập bẹ đuợc điều gì đó chăng? Quả thực, sự yếu đuối của Thiên Chúa là sự yếu đuối của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ dưới những hình thức khác nhau, như lòng thương xót (mercy), lòng trắc ẩn (compassion) và sự âu yếm (tenderness). Tôi thích chiêm ngắm lòng âu yếm của Thiên Chúa trong hình tượng Hài Nhi Bê-lem. Hình tượng này cũng gợi lên nơi tôi tình cảm âu yếm đối với Chúa Hài Đồng. Một hài nhi tùy thuộc hoàn toàn nơi những kẻ khác. Chúa cũng cần đến tôi…

Quyền năng phục vụ cho tình yêu

Không phải là Thiên Chúa làm người không còn là Thiên Chúa toàn năng nữa, nhưng Người biểu lộ và thi thố quyền năng không theo cách thức của loài người chúng ta. Như thánh Phaolô sau này sẽ nói, Chúa Giêsu tỏ quyền năng mình ra chính trong sự yếu đuối. Đàng khác, Người không bao giờ dùng quyền năng thần linh mình để phục vụ bản thân hay để đe dọa hoặc đè bẹp kẻ khác, mà là để phục vụ cho tình thương, lòng thương xót, lòng trắc ẩn của Người đối với tha nhân. Trong sa mạc, sau khi Người đã ăn chay, ma quỉ cám dỗ Người biến những hòn đá thành bánh mà ăn; trên Núi Sọ, các quân lính cũng thử thách Người hãy tự cứu mình đi để chứng tỏ mình là vua dân Do Thái –những điều mà Người hoàn toàn có thể làm được- nhưng Chúa Giêsu đã không nghe theo. Về sau, thánh Gioan mới hiểu rằng chính lúc bị treo trên thập giá, nghĩa là chính lúc Đức Giêsu tỏ ra là bất lực nhất, là thất bại hoàn toàn mà Người đã toàn thắng, đã biểu lộ quyền năng của Người trọn vẹn nhất. Sự toàn thắng của "lòng yêu thương đến tận cùng".

Thiên Chúa vẫn tiếp tục bị xua đuổi

Trong thế giới ngày nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục chọn lựa con đường của sự yếu đuối và vẫn tiếp tục bị nhạo báng, bị chống đối và xua đuổi. "Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1, 10-11). Những lời đó của tông đồ Gioan vẫn còn đúng, rất đúng cho hoàn cảnh thế giới hôm nay – một thế giới tìm mọi cách loại trừ Thiên Chúa, xóa bỏ mọi dấu vết của Người ra khỏi xã hội, khỏi nền văn hóa. Rất nhiều xã hội cấm treo thánh giá hay đặt những ảnh tượng nơi công cộng. Ngày lễ No-en rõ ràng là ngày kỷ niệm Chúa Cứu Thế ra đời, thế nhưng một số nước xưa nay được coi là Kitô giáo vẫn muốn thay thế tên gọi lễ Giáng sinh bằng tên gọi ngày nghỉ mùa đông… Sao mà người ta hậm hực với Chúa như thế? Nếu Chúa chúng ta tỏ mình ra như Đấng uy quyền và nghiêm khắc, biết đâu tình hình đã khác rồi! Nhưng Người vẫn muốn là một Thiên Chúa uy quyền trong sự yếu đuối của tình thương.

Cám dỗ lớn, cám dỗ thường xuyên đối với người Kitô hữu chúng ta, đối với Giáo Hội chúng ta cũng là cám dỗ mà các thánh Tông Đồ xưa đã có lúc sa vào và người ta đã muốn kéo cả Đức Giêsu tới: đó là nôn nóng muốn một sự thành công hiển hách mau chóng bằng cách lấy quyền lực thay cho sự yếu đuối (sự yếu đuối của tình thương) để phục vụ cho mình và sứ mạng của mình. Nhưng thành công cuối cùng của Chúa Cứu Thế là sự phục sinh nằm bên kia cái chết, và con đường dẫn tới đó phải khởi đi từ Máng Cỏ đến Núi Sọ.

Lm Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô

Mục lục

 

TÀI LIỆU TUẦN THƯỜNG HUẤN LINH MỤC GIÁO PHẬN ĐÀLẠT 2006

 

MỘT CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG BẢN CHẤT, ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG

CỦA GIÁO HỘI TRONG THÔNG ĐIỆP

“THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

 

NHẬP ĐỀ

Toàn bộ Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và đặc biệt Phần II, gợi lên trong chúng ta những suy tư về Bản Chất, Đời Sống của Giáo Hội và nhất là hoạt động bác ái như là Sứ Mạng của một Cộng Đoàn Yêu Thương. Và đó là chủ đề mà chúng ta sẽ chia sẻ và trao đổi với nhau.

Ở đây, xin được phép sử dụng hai tiếng “Yêu thương”, để có thể hiểu danh từ “Caritas hay Amor”, như một thuật ngữ vừa bao gồm trong đó tình yêu nam nữ, tình thương gia đình, tình bằng hữu, tình đồng bào, tình đồng đạo, tình nhân loại, tình bác ái, đồng thời cũng vừa để xác định rõ hơn ý nghĩa của Tình yêu, một Tình Yêu “bị đâm thâu”. Vì một tình yêu chân thật bao giờ cũng gắn liền với hy sinh, nên trong hy sinh bao giờ cũng có ít nhiều đau thương. Bước vào tình yêu là đi vào niềm vui, nhưng cũng là đi vào đau khổ. Tình yêu mang đến cho ta những hạnh phúc ngọt ngào, nhưng không thiếu những nỗi khốn khổ nhọc nhằn. Không biết có phải là bi quan, hay lãng mạn khi chúng ta nghe bài hát của Trịnh Công Sơn và cảm thấy rất phù hợp : “Hãy yêu nhau đi khi rừng thay lá… Hãy trao cho nhau muôn ngàn yêu dấu. Hãy trao cho nhau hạnh phúc lẫn thương đau”. Vâng, “yêu là thế đấy !”

Và từ kinh nghiệm của con người, tình yêu không phải chỉ là một cảm xúc “thật mạnh” trong trái tim, vì “Cảm xúc đến rồi đi”, như Đức Thánh Cha Bênêđictô nhận định : “Cảm xúc có thể là một tia sáng khai mở diệu kỳ, nhưng tổng thể của tình yêu không phải như thế” (s.17). Vì thế, tình yêu còn là một quyết định chọn lựa, một trách nhiệm dấn thân, bao gồm ý muốn và hành vi tự hiến, “đòi hỏi cả ý chí và lý trí” (s.17). Kinh nghiệm tình yêu cho biết : càng yêu mãnh liệt bao nhiêu thì càng đớn đau nhiều bấy nhiêu.

Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô cũng chính là kiểu mẫu của tình yêu đó. Chúng ta không thể rao giảng Đấng Phục sinh mà không nói đến cuộc khổ nạn thương đau của Người. Phục sinh là nụ cười chiến thắng của một tình yêu đạt đến tuyệt đỉnh, của một trái tim “bị đâm thâu” (Ga 19,37), một trái tim bị thương tích. Thánh Kinh mạc khải cho chúng ta biết vì “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,16), nên Người là Đấng “chạnh lòng thương xót” (Lc 15,20-31) và tình yêu của Người là một tình yêu “tha thứ tất cả, tin tưởng, hy vọng và chịu đựng tất cả” (1Cr 13). Theo ý nghĩa đó, thì chính Tình yêu làm cho Thiên Chúa biết “đau khổ”, và chính đau khổ làm cho Thiên Chúa “biết yêu”.

Mầu nhiệm đau khổ của Thiên Chúa cũng là mầu nhiệm về sáng kiến, phương cách và khả năng yêu thương vô tận của Người. Như Thông điệp nhấn mạnh : “Thiên Chúa yêu thương con người đến độ trở thành con người, chạy theo họ đến độ đi vào cõi chết và với cách thức này đã giao hòa công lý với tình yêu” (s.10). Nơi Thiên Chúa, chẳng có sức mạnh nào mạnh mẽ hơn sức mạnh yêu thương mà Đức Kitô đã khải mặc cho chúng ta : “Không có tình yêu nào cao cả hơn là chết cho người mình yêu” (Ga 15,13). Với một tình yêu toàn năng, toàn tri, toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, và hoàn toàn tuyệt đối như thế đó, Thiên Chúa mới có thể đồng hành và là một với con người trong mọi hoàn cảnh của lịch sử. Như Đức Thánh Cha Bênêđictô đã khẳng định :

Đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất. Chính cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu… (Ga 19,37) giúp chúng ta hiểu được khởi điểm của Thông Điệp : Thiên Chúa là Tình yêu… Và cũng từ đó, có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con đường để sống và để yêu (s.12).

Trong bối cảnh này, như là một cố gắng lắng nghe và học hỏi, để hiểu được những gì mình đọc, và để sống được những gì mình hiểu, trước hết xin tóm lược một vài nội dung chính yếu trong phần II của Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình yêu”, với những câu hỏi :

 

·         Bản chất thực sự của Giáo Hội là gì ? Yêu thương có phải là yếu tính của Kitô Giáo hay không ?

·         Tại sao yêu thương là đời sống của Giáo Hội ? Phải chăng phục vụ và thực hiện yêu thương là lẽ sống, là ngọn nguồn duy nhất mang ý nghĩa cứu thế và giá trị đến cho Giáo Hội ? Và đó có phải là trách nhiệm không ngừng nghỉ để trở thành hiện sinh Kitô ?

·         Thế nào là sứ mạng yêu thương của Giáo Hội trong thế giới hôm nay ?

Sau đó, chúng ta sẽ chia sẻ một vài cảm nhận và nhận định tổng quát về Giáo Hội và hoạt động yêu thương trong ánh sáng của Thông Điệp.

Yêu thương là hơi thở của cuộc sống, là nhu cầu khẩn thiết (sát sườn, xa sườn ?) của con người. Từ trong kinh nghiệm là người và làm người và qua những bươn chải và chất vấn của cuộc đời, chúng ta có thể nhận thức rằng yêu là sống và sống cũng là yêu. Yêu mới có thể sống được và được sống mới có thể yêu. Không ai sống mà chẳng khao khát tình yêu thương, và cũng chẳng có ai yêu thương mà lại không khao khát sự sống. Tình yêu và sự sống chỉ là một. Chẳng thế mà trong trình thuật tạo dựng con người, Thiên Chúa đã “thổi hơi” vào Adam và Eva, để trao ban cho họ sự sống từ tình yêu sung mãn của Người. Biết đâu từ đó họ cũng phải “hít thở” nhau để mà sống. Nụ hôn là biểu tượng rất đẹp của tình yêu, là một sự trao đổi “hơi thở”, chan hòa sự sống, sự hiệp thông sâu thẳm của những người yêu nhau. Những chuyện tình trong nhân loại khởi đầu từ thuở ấy.

Sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi cũng thế, đó là sự sống vận hành đón nhận và cho đi, là sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Đấng-Yêu-Thương, và Chúa Con, Đấng Được-Yêu-Thương, và Chúa Thánh Thần là “Nụ Hôn” chung, là Tình Yêu và Người Yêu của cả Chúa Cha và Chúa Con. Đó là tất cả mầu nhiệm, nguồn gốc và nguồn mạch của tình yêu vĩnh hằng, đã tuôn đổ vào lòng đời, đã “nhập thể”“nhập thế”.

Vì vậy, yêu hay không yêu, đó là vấn đề căn bản, là điều duy nhất cần thiết ở đời này và đời sau. “Tôi yêu, nên tôi hiện hữu”. Đây không phải là vấn đề tranh luận với chủ nghĩa duy lý khô khan : “Tôi tư duy, nên tôi hiện hữu”, cũng như phong trào sùng bái tình cảm nhất thời : “Tôi cảm giác, nên tôi hiện hữu”, hoặc là phản kháng thời đại : “Tôi lo âu, nên tôi hiện hữu”. Thực ra, quan điểm về tình yêu như là lẽ sống, là nền tảng căn bản, để hiện hữu của chúng ta phát lộ ra, là một đóng góp độc đáo và có thể tìm thấy trong bài Thánh thi ca ngợi tình yêu của Thánh Phaolô (1Cr 13) mà Đức Thánh Cha nhận định như là “Hiến Chương” cho mọi hoạt động yêu thương của Giáo Hội, cũng như “cô đọng tất cả những suy tư” mà ngài triển khai trong Thông Điệp.

Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người…, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi (1Cr 13,1-3).

Chính trong viễn tượng đó, chúng ta có thể xác định bản sắc làm người của chúng ta là yêu thương, hay nói một cách triệt để hơn theo Thông Điệp, thì yêu thương chính là “tính nhân bản đặc thù của con người” (s.28). Con người là hữu thể yêu thương, hữu thể tương giao. Yêu thương là hiện hữu và tạo nên sự sung mãn của hữu thể. Thật vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, chúng ta không thể sống cũng như phát triển, nếu thiếu vắng yêu thương. Từ trong lịch sử tình yêu mà Thánh Kinh đã tường thuật, chúng ta có thể suy tưởng và tin tưởng rằng yêu thương là đặc ân của con người, con người đón nhận, vì trước hết “con người là kẻ đã được yêu” (s.17), và được mời gọi vào đời để trở nên yêu thương cho đời người, để “học yêu thương một cách từ từ, sao cho càng ngày tình yêu đó càng ôm lấy tất cả mọi năng lực của chúng ta và mở ra cho chúng ta con đường sống ngay chính” (Lời Giới thiệu Thông Điệp.) Do đó, yêu thương không phải chỉ là một thuộc tính nhân văn, nhưng chính là thực tại của mọi thuộc tính trong thân phận cũng như trong tiến trình là người và làm người cho ra chất người. Và tính chất làm nên con thực sự là gì, nếu không phải là nhân ái, là người có trái tim yêu thương rộng mở ? Con người trưởng thành cuộc sống là con người có khả năng thiết lập được những tương giao tốt đẹp. Chỉ có trưởng thành mới biết yêu và chỉ yêu mới biết mình trưởng thành. Trong ý nghĩa đó, yêu thương là tiêu chuẩn đánh giá mức độ văn minh và trình độ văn hóa cũng như sự phát triển tâm lý của một con người, của một xã hội. Gần đây, chúng ta thấy trong các văn kiện, tài liệu học tập hay giáo huấn của Giáo hội, đặc biệt là tư tưởng phát xuất từ Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, hay nhắc đến một nền “văn minh tình thương”, trong một nền “văn hóa sự sống” là như thế.

Có một câu châm ngôn truyền thống của Giáo Hội, nghe nói là của Thánh Giáo Phụ Irênê : “Deus homo factus est, ut homo fieret Deus” (Thiên Chúa làm người để con người được làm Thiên Chúa). Ở đây, chúng ta có thể nói : Vì Thiên Chúa là “Tình Yêu-ở-cùng-chúng ta” trong tất cả con người, cuộc đời và sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu, nên nhờ kết hiệp với Người, ở trong Người và tham dự vào tình yêu đó mà chúng ta có thể trở nên như Thiên Chúa là Tình yêu. Điều này là do bản chất, ơn gọi và vận mạng của chúng ta. Trong yêu thương mà con người có thể phát huy và thành đạt chính bản ngã đích thực của mình.

1. Giáo Hội : Một Cộng Đoàn Yêu Thương

Nếu nói với Thiên Chúa là nói với Tình yêu, hay nói về Thiên Chúa cũng là nói về Tình yêu, thì khi bàn luận về Giáo Hội của Người, chúng ta không thể không đề cập đến một Cộng Đoàn yêu thương, sống nhờ yêu thương và sống cho yêu thương. Thánh Kinh diễn tả Giáo Hội, không phải như một xã hội lan rộng khắp hoàn cầu và được tổ chức trong trật tự qui củ, nhưng trước hết như một sáng kiến đầy yêu thương của Thiên Chúa. Giáo Hội được hiểu như một mầu nhiệm xưa kia ẩn tàng trong lòng Thiên Chúa (Ep 1,9 ; Rm 16,25), được chuẩn bị từ muôn thuở trong lịch sử Giao ước với Israel, nhưng đã đến thời được mạc khải như là “dân mới của Thiên Chúa” (1Pr 2,10), được khai sinh dưới chân Thập giá, trong mầu nhiệm Vượt qua của Đức Giêsu Kitô, và được chính thức thiết lập vào ngày Lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,4-41 ; 1,8).

Các Giáo Phụ đã thường quan niệm về Giáo Hội với một hình ảnh rất đẹp, đầy yêu thương, nhưng cũng rất bi thương. Giáo hội như là “Eva mới”, được sinh ra từ cạnh sườn Đức Kitô, “Adam mới” (1Cr 15,45 ; Cl 3,10), khi người đang an nghỉ trong kẻ chết, cũng như Eva xưa đã sinh ra bởi cạnh sườn của Adam cũ khi ông đang ngủ say. Trong Tin Mừng Gioan, chúng ta nhớ đến trình thuật về sự kiện “Máu cùng nước chảy ra” từ cạnh sườn của Đức Giêsu (Ga 19,34). Máu và nước trước hết là biểu trưng hy tế tình yêu của Con Thiên Chúa, và đồng thời là biểu trưng Thần Khí được trao ban cho Giáo Hội, thông truyền sự sống thần linh và tình yêu cho Giáo Hội, làm sống động Giáo Hội. Thần Khí yêu thương ấy đã thấm nhập vào “xác thịt” Giáo Hội, làm cho Giáo Hội chết đi và sống lại trong một đời sống mới.

Giáo Hội là điểm hẹn của hai thế giới, là nơi gặp gỡ tình yêu giữa trời và đất, siêu nhiên và tự nhiên, thần thiêng và phàm trần. Vì nối tiếp Thân thể Đức Kitô, Giáo Hội trở thành “trung tâm bác ái”, “ngôi nhà tình thương”, là “căn lều của tình yêu” Thiên Chúa cắm giữa nhân loại. Đó là mầu nhiệm của một cơ chế “thần nhân”, bao gồm những người được thừa hưởng ơn cứu độ trong Đức Kitô (Cv 2,47 ; 1Cr 1,18), là nơi nhân loại có thể tìm gặp được ánh sáng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó mà được phục hồi sự sống (Rm 5,12), được giao hòa và hiệp nhất với nhau (Ga 11,52 ; Ep 2,15-18).

Chính vì vậy mà khi suy nghĩ về bản chất hay nguyên lý thống nhất của đời sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Bênêđictô, trong Thông điệp này, đã không nhấn mạnh đến khía cạnh pháp lý, cơ chế, phẩm trật của Giáo Hội, nhưng đặc biệt hướng cái nhìn của chúng ta về Giáo Hội, tập trung “vào cạnh sườn được khai mở của Đức Giêsu… và qua đó chúng ta có thể nhận ra kế hoạch của Chúa Cha, Đấng vì yêu (Ga 3,16) đã sai Con yêu dấu của mình đi vào trần gian, để cứu độ nhân loại” (s.19). Như thế Thân Thể của Giáo Hội phát sinh từ Thân Mình chịu “đóng đinh và phục sinh” của Đức Kitô. Đó là cội nguồn, là bản tính sâu xa của Giáo Hội, nghĩa là Giáo Hội đến từ cạnh sườn của Đức Kitô, từ trái tim “bị đâm thâu” của Người (Ga 19,37 ; Dcr 12,10).

Trong cái chết của Đức Giêsu trên Thập giá xưa như một biến cố vĩnh cửu của tình yêu, Người đã “trao ban Thần Khí” cho Giáo Hội (Ga 19,30). Và như Thông điệp nhận định, đó là sự “khởi đầu cho quà tặng là Chúa Thánh Thần mà Người sẽ ban sau khi Phục sinh” (Ga 20,22), (s.19). Và Thánh Thần sẽ “tuôn chảy từ nội tâm của các tín hữu” (Ga 7,38-39), vì Người là “sức mạnh bên trong làm hòa nhịp trái tim của họ với trái tim của Đức Kitô và thúc đẩy họ yêu thương anh em mình như chính Đức Kitô đã yêu họ, khi Người cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-13) và đặc biệt khi Người hiến dâng mạng sống của mình cho tất cả”. (Ga 13,1 ; 15,13) (s.19).

Với hình ảnh “trái tim bị đâm thâu” như một kinh nghiệm nguyên thủy về Giáo Hội, Thông điệp giúp chúng ta xác tín rằng Giáo Hội trên hết và trước hết là Cộng Đoàn của một “tình yêu tự hiến”. Không thể yêu thương được nếu như trái tim không bị “đâm thâu”, để mở rộng và dâng hiến. Chúng ta có thể nhận thấy Thiên Chúa đã đi bước trước trong lịch sử, trong sáng kiến và hành động yêu thương của Người. Và Giáo Hội là ai, nếu không phải là “Hiền thê” của Đức Kitô ? (2Cr 11,2). Giáo Hội được mời để kết hiệp với Người mà sinh ra một “gia đình Công giáo” (theo đúng ý nghĩa của từ ngữ), mang hình ảnh và đặc tính Chúa Ba ngôi. Nhờ vậy mà Giáo Hội có khả năng liên kết mọi dị biệt của nhân loại, vượt qua mọi chia rẽ oán hờn, thích ứng với mọi nền văn hóa (Cv 10,13 ; 1Cr 12,13 ; Cl 3,11 ; Gl 3,28), và mở rộng vòng tay đón nhận toàn thể vũ hoàn.
(Mt 28,19).

Từ viễn tượng Thánh Kinh đó, Thông điệp đã nói lên bản tính yêu thương và cách thức yêu thương của mình. Bản tính và cách thức yêu thương ấy có cội nguồn sâu xa và kiểu mẫu là chính sự thông hiệp tình yêu của Ba Ngôi hiện diện trong tất cả mọi người và trong từng người (s.19). Đức Thánh Cha Bênêđictô đã nhấn mạnh ý tưởng này, khi người trích dẫn câu nói của Thánh Augustinô : “Nếu anh thấy tình yêu, anh thấy Ba Ngôi cực thánh”. Đó là Đấng-Yêu-Thương, Đấng-Được-Yêu-Thương, và Tình-Yêu-Thương. Chính yêu thương là bản chất của Thiên Chúa đã làm nên bản chất của Giáo Hội, đưa Cộng Đoàn tính của Thiên Chúa vào Cộng đoàn tính Giáo Hội, để có thể cùng đưa toàn thể lịch sử nhân loại vào lịch sử cứu độ. Phải chăng Cộng Đoàn Thiên Chúa phản ảnh trong Cộng Đoàn Giáo Hội, hay phản ảnh trong bất cứ một Cộng đoàn nhân loại biết yêu thương ? “Ubi caritas et amor, Deus ibi est”. Nếu Thiên Chúa là Tình yêu, thì Người cũng là Thiên Chúa “cho chúng ta”. Như trong lời kết thúc Phần I của Thông điệp, chúng ta đọc thấy :

Tình yêu mang tính thiên linh vì từ Thiên Chúa mà đến và giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa, và trong tiến trình kết hợp này, giúp chúng ta trở thành một “chúng tôi”, vượt thắng mọi chia rẽ và làm cho chúng ta nên một, để rồi cuối cùng “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài (1Cr 15,28) (s.18).

Thiên Chúa đã và đang thực hiện biết bao nhiêu điều kỳ diệu cho nhân loại chúng ta. Do đó, “vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta”, mà Thiên Chúa đã thực hiện yêu thương và làm cho yêu thương hiện diện bao trùm trong toàn bộ các Mầu nhiệm Sáng tạo, Mạc khải, Cứu độ và Thánh hóa. Trong ý nghĩa này, thì cùng đích của Giáo Hội không phải là hiện hữu cho chính mình, nhưng là hiện hữu cho và hướng đến Vương quốc của Tình yêu vĩnh hằng, để Thiên Chúa có thể ở cùng con người và con người có thể ở cùng Thiên Chúa và là một với Thiên Chúa, trong một mối tình trọn vẹn đến bất tận. Đó là “giấc mơ nguyên thủy của con người”, và sự kết hợp này, như Thông điệp triển khai thêm, “không phải là sự tan biến, chìm sâu vào một đại dương vô danh của thần tính, nhưng là sự hợp nhất tạo nên tình yêu, trong đó cả hai - Thiên Chúa và con người - ở lại trong tình yêu và hoàn toàn trở thành một”. (s.10).

Có yêu thương như thế, Giáo Hội mới là Hội “Thánh” (Ep 5,26), một Cộng đoàn của các “Thánh” (Cv 9,13), vì tình yêu là “linh thánh”. Tuy chỉ là một “đoàn chiên bé nhỏ” (Lc 12,32), nhưng Giáo Hội lại hàm chứa một giá trị và phẩm giá vô biên, vì được xây dựng vững chắc trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa. Giáo Hội chính là Tình yêu Thiên Chúa nối dài. Giáo Hội không có bản sắc và hiện hữu nào khác ngoài bản sắc và hiện hữu của chính Đức Kitô, là vị Hôn phu của Giáo Hội, là hiện thân sinh động của một tình yêu hoàn hảo, và tình yêu đó đã chọn lấy hy sinh làm lẽ sống. Như vậy, nói theo kiểu Thánh Phaolô, để “Thập giá của Đức Kitô khỏi trở thành vô ích” (1Cr 1,17), biến cố “đóng đinh và phục sinh” của Người vừa tỏ bày và khẳng định yếu tính duy nhất của Thiên Chúa là tình yêu, vừa vén mở cho chúng ta thấy rằng : có sống yêu thương mãnh liệt đến độ dám hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa và cho tha nhân, thì hiện hữu của chúng ta mới đạt đến mức thành tựu sung mãn. Yêu thương là yếu tính, là trọng tâm và tuyệt đỉnh của đời sống Kitô giáo. Trong ý nghĩa này, chiều kích “Eros”“Agape” của tình yêu gặp nhau.

2. Giáo Hội sống cho Yêu Thương

Đó là lý do tại sao yêu thương là cơ sở chủ yếu và cội nguồn của nền luân lý, lối sống đạo đức hay “định hướng” linh đạo Kitô. Vì yếu tính của Giáo Hội là yêu thương, nên “luật pháp” của Giáo Hội là giới răn yêu thương, theo gót chân và kiểu mẫu tình yêu của Đức Kitô : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Đây là một “mệnh lệnh” duy nhất (Mc 12,29-31 ; Mt 22,35-40 ; Lc 10,25-28), nhưng cũng là một lời “truyền dạy” tha thiết nhất (Ga 15,14 ; 17) mà Đức Kitô đã ban bố cho Giáo Hội, như điều kiện thiết yếu, như dấu hiệu cụ thể, để chúng ta có thể trở thành môn đệ và bạn hữu của Người : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này : là anh em có lòng thương yêu nhau” (Ga 12,34).

Thực ra thì trong tình yêu, không ai có thể “ép buộc” hay “ra lệnh” cho chúng ta phải yêu, vì bị ép buộc vì bất cứ lý do gì thì chúng ta không còn hoàn toàn tự do nữa. Một tình yêu khống chế, áp đặt chỉ là một “ngục tù” làm ngộp thở con người. Vì thế, nhiều người có thể ngộ nhận khi nghe đến thuật ngữ “giới luật yêu thương”. Ở đây, chúng ta không nhất thiết phải hiểu giới luật như là một thứ “lề luật” nghiêm khắc trong những hệ thống pháp trị đáng sợ của con người, nhưng là một “đề nghị”, một lời mời gọi khẩn thiết, một lời “van xin” tha thiết nhất, hướng dẫn chúng ta bước vào con đường và lối sống yêu thương, bởi vì, như trong lời giới thiệu, Thông Điệp đã giải thích rằng :

Thiên Chúa không chỉ đã cống hiến cho chúng ta tình yêu, nhưng trước hết Ngài đã sống tình yêu đó, và bằng rất nhiều cách thế, Ngài gõ cửa tâm hồn chúng ta để khơi dậy tình yêu, chúng ta đáp trả tình yêu Ngài (s.4).

Tuy nhiên, vì hành vi yêu thương là một hành vi tự do nhất. Con người yêu thương trung thực là con người “vượt qua” mọi biên giới, mọi hàng rào ngăn cách, dám vứt bỏ mọi sự, vượt qua chính mình, không “nhốt” mình trong tồn tại ích kỷ, để có thể từ bỏ hay quên đi chính mình, trao ban bản thân và hiến dâng chính mình cho yêu thương như một chủ thể tự do, như Đức Giêsu, Đấng đã tự do “yêu thương cho đến cùng” (Ga 13,1) Thế nên, tự do không phải là muốn làm gì thì làm, nhưng là tự đảm nhận một trách nhiệm, một chọn lựa cơ bản, để nhập cuộc, để gắn bó, để dấn thân, để trở thành mình, để hoàn toàn tự do yêu thương. Yêu thương trở thành một thứ “kỷ luật nội tâm” của con người có ý thức và trưởng thành trong lòng mến hơn là “luật lệ bên ngoài”.

Trong ý hướng đó, tự do là thuộc tính của tình yêu và chắp cánh cho tình yêu vươn cao đến vô tận. Chính tình yêu réo gọi tình yêu, và tình đáp lời tình, nên Đức Benedictô lập lại ngay trong phần dẫn nhập : “Vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4,10), nên tình yêu không còn là một “giới luật”, nhưng là lời đáp trả cho hồng ân tình yêu, qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta” (s.1). Trước những chiều kích khác nhau và những cách thức tự do hành động của Thiên Chúa, chúng ta chỉ biết đáp trả bằng lời chúc tụng và lối sống yêu thương như một “luật mới”, luật của Tin Mừng, của đời sống mới. Trong ý nghĩa này thì “tình yêu có thể trở thành “bó buộc” vì trước đó tình yêu đã được ban tặng” (s.14). Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Người cũng biết mong biết chờ tình yêu đáp trả của chúng ta. Khi biết chờ biết mong là lúc chúng ta bắt đầu biết yêu.

Như thế, Thông điệp đã đề xuất những hệ luận tất nhiên của sứ vụ làm người Kitô hữu, nghĩa là :

Cộng đoàn trở thành chứng nhân cho tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất trong Con của Người. Mọi hoạt động của Giáo Hội đều là sự biểu lộ một tình yêu muốn tìm sự thiện toàn vẹn cho con người… và tìm cách phát triển con người trong những lãnh vực khác nhau của cuộc sống và sinh hoạt nhân văn (s.19).

Chúng ta thấy rằng Yêu thương chân thật không tự giới hạn trong những lời nói, nhưng phải được thể hiện bằng hành động và chứng thực qua cuộc sống. Đây là lựa chọn cơ bản của Giáo Hội, của hành vi tôn thờ, của niềm tin vào Thiên Chúa là Tình yêu, gắn liền với một đời sống dấn thân yêu thương. Thông Điệp cũng xác nhận mối tương quan này : “Đức tin, phương tự, ethos (đạo đức) thấm nhập vào nhau như một thực tại duy nhất tạo thành agape trong sự gặp gỡ với Thiên Chúa” (s.14). Từ sự lựa chọn cơ bản đó, chúng ta có thể rút ra những yếu tố tiêu biểu liên quan đến Giáo Hội như một Cộng Đoàn yêu thương và dấn thân sống đời yêu thương. Đó là một Cộng đoàn có trách nhiệm, một Cộng đoàn hiệp nhất, và một Cộng đoàn phục vụ.

a. Cộng Đoàn Trách Nhiệm

Trước hết, Giáo Hội sống đời yêu thương là một Cộng đoàn có trách nhiệm. Như Thông Điệp nhấn mạnh, yêu thương là “trách nhiệm của từng người Kitô hữu, cũng là trách nhiệm của toàn thể cộng đoàn Hội Thánh, đó là nghĩa vụ của mọi cấp : từ cộng đoàn địa phương đến Giáo Hội cùng miền cho đến Hội Thánh hoàn vũ như một tổng thể. Hội Thánh trên phương diện là cộng đoàn, phải thực thi bác ái” (s.20). Điều này cho thấy yêu thương không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên “chợt đến rồi chợt đi”, nhưng còn phải được thể hiện cụ thể bằng trách nhiệm tạo nên sự sống và hạnh phúc cho những người mình yêu thương.

Hiểu như vậy, thì trách nhiệm của yêu thương trước tiên là khả năng biết lắng nghe, biết nhìn thấy, biết quan tâm, biết tiếp cận, biết thông cảm, biết nhạy cảm, biết phân định và chạnh lòng, rồi mới có thể đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết của tha nhân. Chúng ta có thể đọc thấy rất nhiều trong các Thánh Vịnh : “Lạy Chúa, Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn ; Ngài cho họ an lòng và lắng tai nghe họ, để bênh đỡ kẻ mồ côi và người bị áp bức” (Tv 10,17), hay là : “Con kêu lên Ngài, Lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu. Xin biểu lộ tình thương diệu kỳ của Chúa” (Tv 17,6-7). Cũng như trong Phúc Âm, rất nhiều lần, Đức Giêsu đã động lòng xót thương khi Người “nhìn thấy” đám đông đói khát Tin Mừng (Mc 6,34), như đói cơm bánh và khát nước sự sống (Mc 8,2). Người run lên bồi hồi vì lòng trắc ẩn với những kẻ bạc phước trong xã hội, những người phong cùi (Mc 1,41), què quặt, mù lòa, câm điếc (Mt 20,34), những bà mẹ mất con hay những người chị mất em (Lc 7,13 ; Ga 11,33) và ngay cả những người tội lỗi bất hạnh nhất (Lc 23,34). Nhưng tình yêu của Người không chỉ biểu lộ và dừng lại ở những nỗi xót xa đó, mà còn dẫn hành động nữa. Người đã ra tay cứu giúp những kẻ khốn cùng. Có như thế, thì khởi đi từ khả năng biết lắng nghe, biết nhìn ra những nhu cầu và đau khổ của người lân cận để đáp ứng, để đi đến những trách vụ hay nhiệm vụ phải thi hành vì yêu thương.

Thế nên, ý thức về trách nhiệm cũng là ý thức về trách vụ xây dựng một cộng đoàn yêu thương, như sách Công vụ Tông Đồ mô tả thuở ban đầu của đời sống Giáo Hội : “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44-45). Tương tự như thế, theo Thông điệp nhìn nhận, thì hài hòa với trách nhiệm “cầu nguyện” và trách nhiệm “phục vụ lời” là trách nhiệm “phục vụ bàn ăn”. Trách nhiệm phục vụ bàn ăn cũng là “một thừa tác vụ thiêng liêng”, một “trách vụ cơ bản của Hội Thánh”. Nói theo kiểu của Thông Điệp, đó là “tình yêu tha nhân có tổ chức” (s.21). Bởi vì, bảy người được tuyển chọn để chăm sóc cho những ai thiếu thốn trong Cộng đoàn, đặc biệt là các bà góa, như là khơi điểm cho phận vụ Phó tế sau này, đều là những người đầy “Thần khí và khôn ngoan”
(Cv 6,1-6). Như thế, trong đời sống Giáo Hội, ở đâu có trách nhiệm thì ở đó mới có tình yêu thương thực sự. Theo cảnh ngữ và nhận định của Thông điệp, thì chính nhờ “thừa tác vụ yêu thương” thực tế và cụ thể này, mà tinh thần hiệp nhất trong Cộng đoàn Giáo Hội sơ khai được tăng trưởng, mọi chia rẽ đố kỵ và bất bình đẳng nơi các thành viên cũng được xóa tan.

b. Cộng Đoàn Hiệp Thông

Như vậy, hiệp thông trong yêu thương là yếu tố nền tảng làm nên Giáo Hội. Tuy Thông điệp không triển khai nhiều về chiều kích này, nhưng đã đưa một nhận xét rất xác thực : sự hiệp thông của Giáo Hội “nằm ở chỗ các tín hữu xem tất cả của cải đều là của chung và giữa họ không có sự phân biệt giầu nghèo… không thể có sự nghèo đói, như việc có người bị từ chối những nhu cầu cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm” (Cv 4,32-37), (s.20). Trong diễn tiến của lịch sử, chúng ta có thể nhận thấy rằng, dưới sự hướng dẫn của Thần Khí và nhờ tình yêu của Đức Kitô thúc đẩy, tinh thần hiệp nhất của Giáo Hội được tỏ lộ qua việc chăm sóc lẫn nhau (Cv 15,12 ; 21,20 ; 1Th 1,7 ; 2,14 ; 2Th 1,4) thăm viếng lẫn nhau (1Cr 16,19) ; Rm 16,16 ; Ph 3,21), thương yêu đùm bọc lẫn nhau, và như thế trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành đúng theo ý định của Thiên Chúa. Nếu Giáo Hội phát sinh từ “trái tim bị đâm thâu” của Đức Giêsu trên Thập giá, thì yêu thương phải có chỗ ưu tiên trong hữu thể và mọi sinh hoạt của Giáo Hội. Vì được qui tụ do sự hiệp nhất tình yêu và sự sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nên Giáo Hội là “gia đình của Thiên Chúa giữa trần gian”. Và trong gia đình này, như Thông điệp nhấn mạnh, “không được phép có những người túng thiếu” (s.25). Thật là ý nghĩa khi Thông điệp trích dẫn Thư gửi cho Giáo đoàn Galata : “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong đại gia đình đức tin” (Gl 6,10). Điều kiện tạo nên sự hiệp nhất trong Giáo Hội là như thế, luôn luôn được yêu thương khơi dậy và thúc đẩy.

c. Cộng Đoàn Phục Vụ

Như chúng ta đã nói, Giáo Hội được sinh ra từ tình yêu Thiên Chúa, lãnh nhận tình yêu, nên có bổn phận và trách nhiệm trao ban tình yêu. Vì thế, Giáo Hội nhất thiết là một Cộng đoàn Phục Vụ Yêu Thương. Không có tình huống nào của dân Chúa, nhất là trong tình huống đó, có đau khổ lầm than về tinh thần cũng như vật chất, mà Giáo Hội lại có thể hững hờ, và tỏ ra xa lạ. Một Giáo Hội sống tinh thần yêu thương là một Giáo Hội có khả năng đồng cảm, đồng hành và liên đới với những lời van xin và những giọt nước mắt của tất cả và của từng anh chị em trong gia đình. Trong ý nghĩa này, yêu thương trong Giáo Hội là một ơn gọi, một đặc sủng, liên kết với một nhiệm vụ, đó là phục vụ, vì “anh em như thể tay chân”, (nói theo kiểu Việt Nam) và có một mục đích duy nhất, đó là xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô, (nói theo kiểu Thánh Phaolô). Do đó, như Thông điệp ghi nhận, “tình yêu trở thành việc phục vụ mà Hội Thánh thực hiện để luôn đáp ứng với những đau khổ và nhu cầu, kể cả những nhu cầu vật chất của con người” (s.19). Đây là công việc phục vụ được thiết lập trong cơ cấu nền tảng của chính đời sống Giáo Hội, mà chúng ta thấy Đức Thánh Cha Bênêđictô nhấn mạnh và lập lại nhiều lần trong Thông Điệp :

Theo dòng thời gian và với sự bành trướng dần dần của Hội Thánh, việc thực thi bác ái được xác định như một lĩnh vực căn bản cùng với việc ban phát các bí tích và việc rao giảng Lời Chúa : việc thực thi bác ái đối với các góa phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội Thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc Âm. Hội Thánh không thể chểnh mảng trong việc thực thi bác ái cũng như chểnh mảng với bí tích và Lời Chúa (s.22).

Hơn nữa, tiếp nối với truyền thống sinh hoạt của Cộng Đoàn Kitô hữu tiên khởi và thần học của các Giáo phụ, Thông điệp còn nối kết phục vụ yêu thương với Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh của Ngày Chúa Nhật. Chúng ta đọc thay :

Khi đến tham dự Nghi lễ “Bẻ Bánh”, những người khá giả ban phát theo khả năng của họ, mỗi người ban phát bao nhiêu tùy ý. Đức Giám Mục sử dụng lễ vật đó để nâng đỡ các trẻ mồ côi, các bà góa và những ngườ, vì bệnh hoạn hay những lý do khác, đang bị túng quẫn, cũng như các tù nhân và cho những người ngoại kiều (s.22).

Có như thế thì Giáo Hội mới có thể là một Cộng Đoàn thực sự “đứng đầu trong tình yêu” (s22). Hay nói cách khác, phục vụ yêu thương là dấu chứng quyết định cho Cộng đoàn Kitô hữu, làm cho đời sống Giáo Hội có một ý nghĩa và một giá trị đích thực. Chính ở đây hay trong yếu tố này mà chúng ta có thể cảm nhận niềm hứng khởi sâu xa thúc đẩy Giáo Hội hiện diện trong những bối cảnh văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau của thế giới con người.

3. Sứ Mạng Yêu Thương trong Thế Giới Ngày Nay

Vì yêu thương là nguồn mạch và nguyên lý của mọi ân huệ và sứ mạng của Giáo Hội, nên Giáo Hội là dấu chỉ, là “bí tích tình yêu” của Thiên Chúa giữa trần gian. Nếu như yêu thương chân thật không chỉ giới hạn giữa hai người yêu nhau, nhưng tất cả đều phải hướng tới những con người khác, thì từ vòng tròn nhỏ bé của mình, Cộng Đoàn Giáo Hội cũng phải tỏa rộng yêu thương, vươn tới cộng đoàn nhân loại. Giáo Hội biết mình không chiếm hữu tình yêu Thiên Chúa, nhưng được tình yêu đó chiếm hữu và sai đi loan báo, thực hiện và thắp sáng yêu thương trên cõi đời. Thông điệp nói rất rõ :

Caritas-Agape phải vượt qua ranh giới của Hội Thánh. Dụ ngôn người Samaritano nhân hậu vẫn phải là tiêu chuẩn, đòi buộc tính phổ quát của tình yêu, một tình yêu luôn hướng đến những người túng quẫn mà chúng ta ‘tình cờ’ gặp gỡ (Lc 10,31), dù họ là ai đi nữa” (s.25) trong cuộc đời này.

a. Tình hình thế giới : hy vọng và thách đố

“Người Samaritanô nhân hậu” của thế giới hiện đại, chắc chắn Giáo Hội đã “lắng nghe” và nhìn ra “những dấu chỉ của thời đại”, để có thể đáp ứng và tìm được những cách thức thi hành sứ mạng và phục vụ yêu thương cho thích hợp.

Có thể nói, nhờ công cuộc canh tân về mọi phương diện của Công Đồng Vatican II, mà một nguồn sinh lực mới đã làm cho Giáo Hội năng động, khả tín, hợp thời hơn và có thể cảm nhận nhu cầu của con người một cách trực tiếp hơn. Vì chúng ta đang sống trong một thế giới với những đổi thay nhanh chóng và tiến bộ khác thường về mặt văn hóa và tôn giáo, về mặt tổ chức xã hội và hệ thống kinh tế, chính trị, kinh doanh, nên các phương tiện truyền thông đại chúng đã làm cho con người và các dân tộc rất khác biệt gần gũi nhau hơn. Cái “ngôi làng toàn cầu” càng ngày càng hiện rõ như một thực tại sống động trong tiến trình “toàn cầu hóa” của một thế giới mới, và một trật tự mới đang hình thành, trong đó những quốc gia nhỏ bé như đất nước chúng ta cũng có thể nắm giữ một vai trò, và có tiếng nói gần xa.

Từ nhận thức mới hay ý thức mới về “tình liên đới giữa các quốc gia” trong thế giới ngày nay, những gì, chúng ta có thể hy vọng ? Trước hết, chúng ta nhận thấy ở nhiều nơi trên thế giới, sự văn minh và những tiến bộ của con người thường mở ra những chân trời hứa hẹn, nơi các phong trào văn hóa vì tự do dân chủ, vì nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền được tôn trọng hơn. Thêm vào đó là những cuộc đối thoại và hòa giải giữa các tôn giáo, các phong trào phụ nữ và cứu giúp trẻ em, các phong trào bảo vệ môi sinh, các cuộc tìm kiếm di sản và giá trị tinh thần. Một hiện tượng quan trọng khác nữa là sự xuất hiện rất đa dạng và triển nở của nhiều hiệp hội nhân đạo, nhiều hình thức thiện nguyện và phục vụ bác ái. Trong bối cảnh thay đổi nói trên, Thông điệp có ghi nhận rằng : “Đây là một phương diện vừa thách thức vừa động viên của việc toàn cầu hóa” (s.30). Và như thế, Thông điệp nói tiếp :

Chúng có trong tay không biết bao nhiêu là phương tiện để sử dụng hầu đem lại sự trợ giúp nhân bản cho anh chị em đang túng quẫn, đặc biệt là các hệ thống tân tiến để phân phát lương thực và quần áo cũng như sẵn sàng cho cá khả năng đón nhận và cung cấp nơi trú ngụ. Như thế, việc chăm sóc tha nhân vượt qua ranh giới các tập thể của quốc gia, để lan rộng đến mọi chân trời của thế giới. (s.30).

Theo Thông điệp, thì cũng trong tinh thần liên đới giữa các dân tộc với nhau mà ngày nay chúng ta có thể nhìn thấy “nhiều hình thức cộng tác giữa các cơ quan Nhà Nước và Giáo Hội” (s.30). Và “việc cộng tác này đã mang lại nhiều kết quả” tốt đẹp. Một trong những thí dụ là : “nhờ sự trong sáng trong hoạt động” bác ái, cũng như sự trung tín hoàn thành nhiệm vụ làm chứng cho tình yêu, nên Giáo Hội đã có thể “làm sinh động các cơ quan dân sự bằng tinh thần Kitô giáo và đòi buộc một sự cộng tác hỗ tương” (s.30) khiến cho việc phục vụ bác ái được thực hiện trên cơ sở của đạo đức và phẩm hạnh. Thái độ trong sáng của Giáo Hội như “men trong bột”, như “hoa thơm diệt trừ cỏ dại” và thách đố những cám dỗ biển thủ hay tham nhũng. Do đó, Thông điệp xác nhận đã có “sự nối kết thật tốt đẹp giữa việc Phúc âm hóa và hoạt động bác ái” (s.30).

Chúng ta có thể cảm thấy phấn khởi và hy vọng trước những thành tựu về phương diện đó. Tuy nhiên, qua các biến cố bi thảm, các cuộc tranh chấp và chiến tranh giữa nhiều dân tộc, xẩy ra gần đây hay còn đang xẩy ra trên trái đất này, chúng ta phải thận trọng và đặt lại vấn đề nhiều lắm. “Mỗi ngày chúng ta càng ý thức hơn”, như Thông điệp nhận thấy, “có nhiều đau khổ trên thế giới do sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần gây nên, dù cho có nhiều tiến bộ về khoa học và kỹ thuật” (s.30). Có nhiều thời cơ, nhưng cũng có lắm nguy cơ. Ở đây chúng ta có thể trích dẫn nhận định của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, tuy đã 40 năm rồi, nhưng còn rất chính xác về hiện tình thế giới :

“Chưa bao giờ nhân loại dồi dào của cải, khả năng và quyền lực kinh tế như ngày nay, vậy mà tới nay một phần rất lớn nhân loại trên thế giới đang quằn quại vì đói ăn và thiếu thốn, rồi biết bao nhiêu người đang chịu cảnh mù chữ. Chưa bao giờ con người ý thức mãnh liệt được sự tự do như ngày nay, đang khi đó lại thấy sống dậy những hình thức nô lệ mới mẻ về mặt xã hội cũng như tâm lý. Trong lúc đang mãnh liệt cảm thấy sự duy nhất cũng như sự lệ thuộc lẫn nhau trong tình liên đới cần thiết, thì thế giới lại bị lôi kéo kịch liệt theo những chiều hướng tương phản do những lực lượng chống đối nhau… Sau hết, người ta nỗ lực đi tìm một tổ chức trần thế hoàn hảo hơn, nhưng lại không lo tiến tới sự phát triển tinh thần tương xứng” (Gaudium et Spes, s.4).

Nếu đó là thân phận con người trong thế giới hiện đại chúng ta đang sống, thì Giáo Hội có thể làm gì ? Giáo Hội có thể thi hành sứ mạng và phục vụ yêu thương bằng những phương thế nào ?

b. Khía Cạnh Đặc Biệt của Sứ Mạng Yêu Thương

Để làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa cách hữu hiệu, Giáo Hội có bổn phận đẩy mạnh và “gia tăng nhiều tổ chức dấn thân cho con người trong những nhu cầu khác biệt” (s.31) bằng cách cởi mở lòng mình ra với thế giới, đối thoại với mọi thực tại trần gian, tham gia vào đời sống văn hóa xã hội của nhân loại theo đúng tinh thần Phúc Âm. Bởi vì Thiên Chúa là Tình yêu đã khắc ghi “mệnh lệnh của tình yêu tha nhân” (s.31) trong bản tính con người, nên sự hiện diện của Giáo Hội giữa trần gian là một sự hiện diện có trách nhiệm “đánh thức” mệnh lệnh tình yêu này, đã thường bị lu mờ hay quên lãng trong dòng lịch sử (s.31). Thế nhưng có một điều quan trọng mà Thông điệp nhắc nhở là làm sao trong mọi hoạt động yêu thương đó, Giáo Hội vẫn giữ vững được “sức mạnh soi sáng trọn vẹn của mình, chứ không bị tan biến như một dạng hỗ trợ chung chung vậy” (s.31). Điều đó có thể hiểu rằng : khi đem ánh sáng tình yêu chiếu soi vào môi trường nhân sinh, Giáo Hội “đánh thức” con người, hòa hợp với mọi người mọi giới, nhưng không “đánh mất” bản sắc Kitô của chính mình. Vì thế, Thông Điệp đã nghĩ đến nhiều phương án nền tảng có liên quan đến việc phục vụ yêu thương.

1) Mẫu Gương “Người Samaritanô nhân hậu”

Trước tiên, theo mẫu gương trong dụ ngôn về “Người Samaritano nhân hậu”, thì mọi hoạt động yêu thương mang đặc tính Kitô giáo là “lời đáp trả những nhu cầu khẩn cấp trực tiếp trong một hoàn cảnh cụ thể” (s.31). Giáo Hội thực hiện yêu thương bằng cách, như Thông điệp dự kiến, “cho người đói lương thực, cho người trần truồng quần áo, bệnh nhân phải được chữa trị, và tù nhân phải được thăm viếng…” (s.31). (Nói theo kiểu Việt Nam, những hoạt động này là những điều được cô đọng trong kinh “Thương người có 14 mối”, mà chúng ta vẫn thường đọc trong các ngày Chúa Nhật).

Hơn nữa, Thông điệp còn lưu ý đặc biệt đến “cách cho” cũng quan trọng như “của cho” vậy, bởi vì “con người luôn cần đến tình người. Họ cần đến sự quan tâm của trái tim” (s.31). Thế nên, khi làm việc bác ái, không phải chỉ là thực hiện những gì cần thiết đúng nơi đúng lúc cho “người thân cận”, nhưng còn phải tôn trọng và chú trọng đến con người của họ với tất cả tấm lòng, để họ có thể “cảm nhận được sự phong phú của phẩm giá nhân bản của họ” (s.31).

2) Sự Độc Lập khỏi các Đảng Phái và Ý Thức Hệ.

Một yếu tố căn bản khác của hoạt động yêu thương của Giáo Hội là sự độc lập khỏi các đảng phái chính trị và ý thức hệ. Chương trình yêu thương mà Giáo Hội nhằm thể hiện “ở đây và bây giờ” là chương trình của người Samaritanô, là chương trình của Đức Giêsu. Đó là chương trình của một “trái tim biết nhìn”, và như Thông Điệp diễn tả : “Trái tim này nhìn ra nơi nào cần tình yêu và hoạt động dựa theo đó” (s.31). Tuy Giáo Hội mang lấy những niềm hy vọng của nhân loại và thực sự hiện diện trong những bối cảnh văn hóa, kinh tế và xã hội khác nhau, nhưng nhân danh cứu cánh tối hậu của mình là sự viên mãn của Vương Quốc Tình Yêu, nên Giáo Hội không thể đồng hóa với bất cứ một ý thức hệ nào, một đảng phái nào, cũng như không thể “phục vụ cho các chiến lược trần thế” (s.31). Giáo Hội thực hiện điều thiện cho con người, theo đúng bản chất yêu thương của mình, chứ không thể “nhân bản hóa thế giới này khi từ chối hành động một cách nhân đạo” (s.31). Nói cách khác, Giáo Hội không thể thực hiện bác ái với bất cứ ý đồ nào khác và bằng bất cứ một thủ đoạn nào khác hơn là tình yêu. Có như thế, Giáo Hội mới có thể là “lương tâm của tình yêu”, đủ tư cách đóng vai trò “ngôn sứ” để phê phán những gì thực ra chỉ là giả tạo mưu đồ chính trị của thế gian.

3) Yêu Thương không phải là Chiêu Dụ Tín Đồ.

Và cuối cùng, như tình yêu hoàn toàn tự hiến và vô vị lợi của Đức Kitô là tấm gương và điểm quy chiếu cho Giáo Hội, nên mọi hoạt động yêu thương của Giáo Hội “không phải là phương tiện cho điều mà ngày nay người ta gọi là chiêu dụ tín đồ” (s.31). Tuy chủ đích là nhắm đến con người trong tương quan với Thiên Chúa, nhưng Giáo Hội không bao giờ tìm cách “áp đặt lên kẻ khác niềm tin của mình” (s.31). Ngược với ý nghĩ của người đời, như Thông điệp diễn tả, chúng ta thấy Giáo Hội ý thức sâu xa rằng : “tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cớ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương” (s.31). Vì thế, theo sự khôn ngoan và kinh nghiệm của Giáo Hội, chúng ta tin và biết rằng “Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8) và ngay lúc đó Người đang hiện diện trong lúc tình yêu được thực hiện, chứ không phải bất cứ điều gì khác” (s.31). Đối với Giáo Hội, “khinh thị tình yêu là khinh thị con người”.

Trong ý nghĩa đó, thì phương cách làm chứng nhân cho niềm tin hữu hiệu nhất, hay theo kiểu nói của Thông Điệp, “việc bảo vệ Thiên Chúa và con người cách tốt nhất nằm ngay trong tình yêu” (s.31). Chúng ta thấy rõ là không thể có sự loan báo và phục vụ yêu thương đích thực, nếu như ngươi Kitô hữu không cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa nơi sâu thẳm hữu thể của mình và được tình yêu đó chiếm đoạt, chinh phục và thúc đẩy. Và khi được tình yêu biến đổi, được tuyển chọn và sai đi trong sứ mạng đem yêu thương thắp sáng cuộc đời, tâm tình và chương trình của Giáo Hội chính là tâm tình và chương trình của Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành.

4. Cảm Nhận và Nhận Định tổng quát

Từ những suy diễn trên, như những con người “đã nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa”, Giáo Hội tiên vàn là một Cộng đoàn Yêu Thương. Chúng ta có thể tóm lược nội dung chính yếu của những gì đã được trình bày trong những cảm nhận và nhận định sau đây :

·         Một “Thư Ngỏ” định hướng Yêu thương

Trước hết, sau khi đọc xong Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, một lần hay nhiều lần, chúng ta có thể có cảm tưởng rằng Thông Điệp là một “Thư Ngỏ” với tất cả tâm tình của một “Người Cha” muốn nói chuyện với con cái mình về Tình yêu như là “yếu tính” của đời sống. Lời văn giản dị, ngắn gọn và trong sáng, nhưng vừa sâu vừa rộng, vừa cao và vừa dài như “tình yêu đi tìm hiểu biết” (Amor quaerens intellectum). Và “tôi yêu để hiểu biết” (Amor ut intelligam), rất mênh mông như mối “quan tâm cuối cùng” của con người. Có thể nhiều người sẽ bảo rằng : “Ôi, cứ lải nhải mãi về Tình yêu, ai mà chẳng biết !” Hay là “Biết rồi, khổ quá nói mãi, coi chừng lẩm cẩm và không thực tế đấy”. Thế nhưng, theo những kinh nghiệm ở đời, có thể chúng ta yêu thì nhiều, nhưng thực sự “biết yêu” theo kiểu “trái tim bị đâm thâu” thì chẳng bao nhiêu, nhất là trong xã hội ngày nay. Nếu đã có nhiều thực sự biết yêu thương như thế, thì “tín nghĩa ân tình ‘đã’ hội ngộ, hòa bình công lý ‘đã’ giao duyên” (Tv 85,11). Ngày xưa chúng ta nghe nói đã có nhiều người “xả thân cứu nước”, nhưng ngày nay lại thấy xuất hiện nhiều người “xả nước cứu thân”. Trước thì có nhiều chuyện “xả thân cứu người”, nay thì “xả người cứu thân” không phải là chuyện họa hiếm.

Hơn nữa, ngày nay chủ nghĩa tương đối và chủ nghịa duy lý kinh tế đang lên ngôi thống trị toàn cầu, tình yêu và hai tiếng tình yêu đã bị lạm dụng rất nhiều và thêm vào đó có nhiều phong trào nhân bản muốn khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Chúng ta hiện đang sống trong một nền văn hóa mà nhiều nhà Xã hội học cũng như Tâm lý học gọi là “văn hóa khoái cảm” (erotic culture), buông lơi theo cảm xúc và cần được thỏa mãn ngay lập tức. Nền văn hóa này ủng hộ lối sống “đừng kìm hãm sự sung sướng”. Hay nói theo Thông điệp là “hạ giá eros thành hàng hóa, thành vật phẩm” mua bán (s.5). Vậy nếu tình yêu làm cho chúng ta biết đợi chờ, thì khi không còn biết chờ đợi, con người cũng chẳng còn biết yêu theo đúng nghĩa của tình yêu. Vì thế Đức Thánh Cha Bênêđictô không ngần ngại kể lại cho toàn thể gia đình Giáo Hội “chuyện tình yêu” của Thiên Chúa Tình Yêu với nhân loại, trong mọi biến cố ngay cả sự cố của lịch sử, để kích thích và làm phong phú một kiểu cách yêu thương thích hợp hơn, mới mẻ hơn cho “những ai đau khổ trong thể xác cũng như tinh thần và đang cần đến hồng ân tình yêu” (Lời giới thiệu Thông Điệp).

Dù tình yêu là một huyền nhiệm cũng như cuộc đời, một lý tưởng thật đấy, nhưng Thông điệp không phải là một bài luận thuyết về tình yêu, để lý tưởng yêu thương có nguy cơ trở thành lý luận, lý sự và lý thuyết. Chủ đích của Thông điệp không phải là sáng chế ra một “chương trình mới”, nhưng là “đổi mới thái độ và lối nhìn của chúng ta về tình yêu” theo chương trình của “Người Samaritanô nhân hậu” đã có sẵn trong Phúc Âm, để lý tưởng yêu thương có thể trở thành “lẽ sống” và một “định hướng” chân thực. Điều này thuộc về bản chất của Giáo Hội, nên không thể “giao cho người khác”, vì bản chất thì “không thể từ bỏ” được (s.25), nhưng có thể phát triển và thăng tiến toàn diện.

Tất cả những điều ấy, và nhất là những tấm gương yêu thương, bác ái sáng ngời của các Thánh Nhân trong lịch sử Giáo Hội, làm cho chúng ta suy nghĩ về thái độ và lối sống đạo của chúng ta. Rất nhiều khi chúng ta cố gắng thực hiện yêu thương để “toan tính” làm “Chúa” của thiên hạ, thay vì đón nhận tình yêu và không “tính toán” điều gì khác hơn ngoài việc làm “tôi tớ” hay “khí cụ” bình an để phục vụ cho tình yêu Thiên Chúa, chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa trị đến. Ở đây chúng ta có thể phân biệt hai lối hiện hữu, theo Tâm lý học chiều sâu và linh đạo Kitô giáo. Đó là hiện hữu trong “tình yêu” và hiện hữu trong sự “phô diễn”.

Nền tảng của cuộc hiện hữu trong tình yêu chính là hiện hữu trong niềm tin, trong niềm xác tín rằng chúng ta đã được yêu thương sâu thẳm từ muôn thuở như chính chúng ta là. Hệ quả của lối sống này làm cho chúng ta cảm nhận được giá trị chân thật của mình, nghĩa là biết mình thuộc về Thiên Chúa, có danh phận trước dung nhan của Người. Chúng ta sống và hiện hũu “như Cha ở trong con và như con ở trong Cha”, và “tất cả những gì của Cha đều là của con”. Nếu tin rằng Chúa luôn ở bên chúng ta, thì còn gì có thể làm cho chúng ta sợ hãi. Đó là đời sống trong Thần Khí, được tự do để sống theo lòng mến (Agape) mà Phaolô đã đề cao và nhấn mạnh trong Thư Galata “Vì chưng tất cả Lề luật đã được nên trọn trong một lời này : Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình” (Gl 5,13-14). Và hoa trái của một đời sống trong Thần Khí là gì ? Như Phaolô nói tiếp : “là mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực, hiền từ, tiết độ” (Gl 5,22-23). Hiện hữu trong yêu thương chính là biết mình thuộc về Đức Kitô, tình nguyện yêu thương, và hướng theo Thần khí mà tiến bước (Gl 5,25).

 Đối nghịch với hiện hữu trong tình yêu là hiện hữu trong sự “phô diễn”. Đó là hiện hữu trong những “tham, sân, si”, trong sự bất ổn, trong việc đi tìm hoài tìm mãi tình yêu và tiếng tăm để tự khẳng định mình. Tình huống sống như thế sẽ dẫn đến một thứ bệnh trầm kha, đó là bệnh thành tích, bệnh phô trương. Con người được lượng giá trên những thành quả, những sản phẩm và tiền của họ làm ra hay chiếm được. Do đó, đời là những cạnh tranh, so sánh, và hoài nghi. Chúng ta làm mọi cách để chinh phục tình cảm cũng như thu hút sự chú ý của người đời, vì không biết phải “được yêu” như thế nào mới cho đủ cho vừa. Hiện hữu trong phô trương thì luôn hướng về mình, và từ đó phát xuất ra những mặc cảm tự ti, rồi đưa đến mặc cảm tự tôn, sinh ra oán hận, nói những lời cay đắng bất mãn. Đó là hiện hữu trong lo sợ. Và lo sợ là “nguồn gốc của mọi sự dữ” (Thomas Merton). Mặt khác, vì ngây ngất về những thành công, đâm ra tự phụ cao ngạo, coi mình là trung tâm mọi sự, nên rất dễ cho mình là tiêu chuẩn để đánh giá mọi người. Vì vậy, hiện hữu trong phô trương sẽ làm cho sức năng động của yêu thương bị tê liệt, vì chỉ biết chiếm đoạt hơn là ban tặng, nhận hơn là cho, “Eros” hơn là “Agape”.

Trong chiều hướng đó, con người không thể vượt qua được chính mình, khong thể ra khỏi mình, chỉ biết quanh quẩn với chính mình. Và nếu hiện hữu trong trong một lối sống có tính cách trình diễn như thế, thì đó là một cuộc hiện hữu trong cô đơn, cô độc, cô quạnh, cô liêu, cô tịch và cô hồn, thực sự đối nghịch với lối sống hiệp thông cởi mở trong tình yêu. Xét về phương diện “văn minh tình yêu”“văn hóa sự sống”, thì hiện hữu như thế là hiện hữu thiếu phát triển, chưa phát triển hay là chậm phát triển. Nói theo kiểu Thông điệp, thì ở đây, “Eros” chưa được thăng tiến và thanh luyện chiều sâu, để có thể “tan biến vào Agape” (s.10).

·         Con Người như một nhân vị,

            một tổng thể duy nhất xác hồn

 Như vậy, ai sẽ làm cho con người có thể yêu thương ? Ai sẽ giải thoát chúng ta ra khỏi chiếm đoạt để trao ban, ra khỏi cơn cám dỗ sở hữu để hiện hữu tràn đầy ? Chúng ta có thể trực giác thấy một câu trả lời cơ bản trong Thông điệp : “Chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa vì Người đã bước vào và còn đang bước vào đời chúng ta” (Lời Giới Thiệu). Từ đó, chúng ta có thể yêu thương người lân cận, vì chúng ta cảm nghiệm chúng ta là “bạn hữu” của Thiên Chúa, vừa là người Chúa yêu, vừa là người yêu Chúa, nên có thể hướng đến việc yêu người khác và “bắt đầu muốn điều tốt cho tất cả những ai mà Chúa yêu thương và những kẻ cần ta trợ giúp”. Vì thế ở đây, phải chăng con người là quan trọng, phải chăng con người sống động là vinh quang của Thiên Chúa ? “Phàm nhân là gì để Người nhớ đến, hay con người là gì để Chúa phải bận tâm ?” (Tv 8,5).

Khi đối diện và đề cập đến một chất vấn của lịch sử về mối tương quan giữa phục vụ yêu thương và công bằng, Thông điệp đã trình bày tình yêu như là động lực và cùng đích của công bằng. Trong bối cảnh đó, Thông điệp chủ trương rằng tình yêu “vẫn luôn cần thiết” (s.28), và công việc phục vụ bác ái không bao giờ là “thừa thãi” (s.28), bởi vì “tình yêu mang đến cho con người không những sự hỗ trợ vật chất, nhưng còn củng cố tinh thần và cứu chữa, là điều còn cần thiết hơn cả các hỗ trợ vật chất” (s.28).

Đối với Kitô giáo thì con người là một nhân vị, một tổng thể duy nhất xác hồn, không thể giản lược vào bất cứ một một chiều kích nào. Con người không chỉ thân xác mà còn thân xác. Con người không chỉ co hồn mà con linh hồn. Vì thế con người là chủ thể của tình yêu, là nguồn phát sinh ra các giá trị nhân sinh, nên tình yêu và công lý phải tôn trọng phẩm gía của mỗi con người toàn vẹn hồn xác như thế. Như Thông điệp nhấn mạnh : Chủ đích của mọi hoạt động yêu thương là “nhắm đến con người trọn vẹn” (s.31). Như vậy, Giáo Hội đề xuất một chủ nghĩa nhân bản đích thực khi “công nhận hình ảnh Thiên Chúa nơi con người và giúp họ có được một cuộc sống xứng đáng với phẩm giá này” (s.30). Nếu “ngày Sabbat là cho con người”, thì con người không thể bị “tế hiến” cho bất cứ một chủ thuyết và cơ cấu chính trị nào.

Giáo Hội dấn thân, không phải để tìm lợi lộc cho sự tồn tại của mình như là kẻ có quyền thế cai trị nơi trần gian, nhưng đứng về phía người nghèo và bênh đỡ kẻ yếu đuối trong xã hội. Giáo Hội không đòi cho mình quyền nào khác hơn ngoài quyền phục vụ. Như thế, trong mọi hoạt động mục vụ, Giáo Hội phát huy “quyền lực yêu” chứ không phải “yêu quyền lực”. Chúng ta được thúc bách bởi tình yêu của Đức Kitô, “Caritas Christi urget nos” (2Cr 5,14), chứ không để cho những “xung lực dục vọng” (libido dominandi) trấn áp và làm cho chúng ta trở thành kẻ khống chế người khác nhân danh tình yêu. Yêu thương chính là động lực sống động cho toàn bộ đời sống Kitô của Giáo Hội. Có yêu mến Chúa và phục vụ con người như thế, chúng ta mới khỏi bị phê phán là chỉ bàn luận về “cõi trên” mà quên mất “cõi đời”. Có chan hòa yêu thương như vậy thì “công lý và tình yêu” mới có thể gặp nhau và hòa giải với nhau.

·         Giáo Hội : một Cộng đoàn yêu thương,

      một trung tâm bác ái, một cơ quan tình yêu.

Từ nhận định trên đây, để làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa một cách hữu hiệu, Thông điệp mời gọi mọi thành viên trong Giáo Hội trong mọi cấp độ, Giáo phận, Giáo xứ và các gia đình Công giáo, phải là và trở nên điều mình là, đó là một “trung tâm bác ái” hay “cơ quan tình yêu”. Theo lẽ thường tình của con người, thì không ai có thể “ép buộc” người khác phải yêu thương mình. Trái tim con người thường quay về và tìm đến với những nơi ấm áp của yêu thương. Muốn cho người khác chuyển tâm hồi ý, sám hối trở về và tìm đến, chỉ co một cách là trở nên cõi ấm áp đó. Nếu mỗi người Kitô hữu, mỗi Giáo xứ, mỗi gia đình là một “trung tâm bác ái” cho con người tìm về gặp gỡ, một nơi đón tiếp ân cần, biết chia vui sẻ buồn, cảm nhận những ước vọng trong mọi hoàn cảnh. Nếu biết sống và biết cộng tác với nhau để tao ra những môi trường tốt đẹp, để bày tỏ sự hiếu khách của Thiên Chúa, thì chắc chắn lối sống yêu thương này sẽ là nền tảng của một linh đạo truyền giáo thích hợp và thiết thực nhất cho thế giới ngày nay. Trong kinh nghiệm ở đời, những cụm từ hay tên gọi khác của yêu thương mà ai cũng cần đến là : hiểu biết, tôn trọng, củng cố, xác định, khích lệ, quan tâm, lắng nghe, khâm phục, cảm kích, tri ân, nâng đỡ, tha thứ và tin tưởng, nhất là cởi mở và tinh thần đối thoại trong tình yêu. Như Thông điệp nhấn mạnh : “Ở đây nhắm đến con người, và con người luôn cần đến một cái gì hơn là sự chăm sóc đúng đắn đầy kỹ thuật. Họ còn cần đến tình người. Họ cần đến sự quan tâm của trái tim” (s.31).

Theo chiều hướng này, một giáo xứ muốn phát triển mạnh cần có người lãnh đạo đứng đầu trong yêu thương và cần có nhiều người biết yêu thương như thế. Từng người biết yêu thì cộng đoàn mới biết yêu, và từng người mới cảm thấy mình được yêu, cho dù yêu thương có đa dạng và phức tạp, dù có vô vàn mâu thuẫn trong đó, nhưng sống động và phong phú. Khi không sẵn sàng để cho mình được yêu thương và chấp nhận cho “trái tim bị thương tích” thì tình yêu bị phong tỏa. Khi không còn muốn đến gặp gỡ người khác, thì tình yêu sẽ co cụm trong tâm hồn buồn phiền, chán nản. Do đó, cuộc đời chẳng còn gì mới lạ và chúng ta sống rất ơ hờ hay thờ ơ trong tiếng thở dài.

Vì thế, Thông điệp mới nhắn nhủ hãy để cho tình yêu lên tiếng : “Người Kitô hữu biết lúc nào có thể nói về Thiên Chúa, lúc nào thì nên thinh lặng và chỉ nói về tình yêu mà thôi” (s.31). Như cuộc đời là một hành trình để con người có thể học hỏi qua kinh nghiệm sống để trở nên chính mình và hoàn thành lịch sử đời mình, thì tình yêu là một nghệ thuật sống. Chúng ta có thể học hỏi yêu thương và cần được giáo dục trong yêu thương mới có thể “yêu thương cho đến cùng”. Chúng ta có thể đọc thấy nhiều nơi trong Thông điệp về tương quan mật thiết giữa tình yêu và giáo dục và nhất là việc “đào tạo trái tim” (s.28 ; 30 ; 31). Một cộng đoàn Giáo Hội, dù lớn hay nhỏ, phải là một trường học yêu thương, vì thế giới này vẫn luôn cần đến những trái tim biết yêu thương cho công lý và hòa bình.

Vậy thì làm thế nào để đào tạo và huấn luyện người Kitô hữu cho đạo đức và sứ mạng yêu thương ? Nói theo tư tưởng của Thánh Phaolô, chúng ta chẳng “mắc nợ” nhau điều gì cả, “trừ phi là yêu thương nhau”, vì “yêu thương là chu toàn tất cả Lề luật” (Rm 13,8-10). Ngày xưa chúng ta thường nhấn mạnh : “Qui regulae vivit, Deo vivit”, ngày nay chúng ta có thể bổ túc : “Qui regulae caritatis vivit, Deo vivit”, bởi vì “Deus Caritas est”.

·         Sống trong tình yêu là sống trong cầu nguyện

Dựa vào những gì vừa khai triển, chúng ta có thể khẳng định rằng không thể sống đời yêu thương và phục vụ bác ái, nếu không có cầu nguyện. Bởi vì, như Thông điệp xác nhận : “Bản chất của Hội Thánh được thể hiện qua một trách nhiệm có ba mặt : rao giảng Lời Chúa (kerygma-martyria), cử hành các bí tích (leiturgia), phục vụ bác ái (diakonia). Đó là những trách nhiệm lệ thuộc vào nhau và không thể tách rời nhau được” (s.25). Theo nghĩa này, cầu nguyện là một cách thế tìm được sức mạnh mới mẻ từ nơi Đức Kitô bị đóng đinh và phục sinh và từ trong Thần Khí của Thiên Chúa. Như Thông Điệp nhắn nhủ : “Chúng ta cần liên hệ nội tâm với Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Nhưng làm thế nào chúng ta đạt được điều đó ? Chỉ qua cầu nguyện” (s.36).

Con người biết cầu nguyện là con người biết yêu và con người biết yêu là con người biết cầu nguyện, vì cầu nguyện là sự gặp gỡ của hai cơn khát : “Chúa khát ta và ta khát Chúa”. Cầu nguyện là đi sâu vào đời sống hiệp thông với Thiên Chúa tình yêu, đó là đời sống biết đón nhận va trao ban, là sự liên đới, “ở với, sống cho và sống trong tình yêu”. Thế nên, cầu nguyện thúc đẩy chúng ta hành đạo và là trường học đào tạo chúng ta sống tình liên đới với tha nhân, mang thương đau và nỗi niềm của họ, biết đồng cảm và nhìn họ với con mắt của “một trái tim biết nhìn” (s.31). Chúng ta có thể nhớ đến một câu nói từ thời Trung cổ : “Ubi amor, ibi oculus” (Đâu có tình yêu thương, ở đó có con mắt), vì ở đâu có yêu thương, thì ở đó chúng ta hiểu và nhìn ra được điều chúng ta cần phải làm. Như Thông điệp cảm nhận : “Tôi nhìn với đôi mắt của Đức Kitô và có thể trao ban cho tha nhân nhiều hơn là những vật cần thiết bên ngoài : đó là cái nhìn của tình yêu mà họ cần” (s.18).

Hơn nữa trong lời cầu nguyện, chúng ta có thể “cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa, cảm nhận sự hiện diện của Người … Người yêu chúng ta và cho chúng ta thấy và cảm nhận tình yêu của Người, và từ bước trước này, tình yêu nảy sinh trong chúng ta như một lời đáp tra” (s.17). Từ việc cảm nhận và xác tín rằng mình đã “được yêu” từ đáy sâu tâm hồn, chúng ta mới có thề thực hiện và phát huy yêu thương. Cầu nguyện chính là “trung tâm huấn luyện tình yêu”, dạy chúng ta biết quan tâm đến người khác, biết khiêm tốn lắng nghe và phân định Thánh Ý Thiên Chúa và những nhu cầu của nhân loại. Cầu nguyện là nguồn phát sinh ra bác ái Kitô giáo. Như thế, Thông điệp đã giúp chúng ta có một tầm nhìn toàn diện về đời sống đạo, liên kết mọi chiều kích nền tảng của Kitô giáo, mà chúng ta thường đề cập đến : “Lex orandi, lex credendi, lex sperandi, lex amandi, lex vivendi”. Ngươi cầu nguyện là người biết “kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người” (1Cr 6,17). Đây là mầu nhiệm tình yêu, “Ubi Caritas et amor, Deus ibi est”, được cử hành trong Thánh Thể, vì Thánh Thể là “bí tích tình yêu”, là “nguồn mạch, trọng tâm và chóp đỉnh” của kinh nguyện và đời sống Kitô.

Vậy thì cử hành Thánh Thể như thế nào, để chúng ta “được lôi kéo vào hành động tận hiến của Đức Giêsu” (s.13), vào sức năng động của một tình yêu đón nhận và trao ban ? Làm sao để việc kết hợp hoàn toàn với Đức Kitô và với hy tế của Người cũng đồng thời là một sự kết hợp với người lận cận, với những người mà Chúa tự hiến cho ? Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, phải ý thức và gây ý thức như thế nào để sự “Hiệp lễ Thánh Thể” thôi thúc chúng ta và người tín hữu ra khỏi bản thân đến với Chúa và đi vào tình hiệp nhất, thành hiện hữu của một “Thân Mình” tan biến và chan hòa trong nhau ? Vậy thì điều gì thích đáng nhất mà chúng ta có thể thực hiện để cử hành những ân huệ tuyệt hảo toả rạng từ tình yêu tự hiến và độ lượng của Thiên Chúa ? Chúng ta họp nhau để dâng lời cảm tạ trong ngày Chúa Nhật, không phải vì cảm nhận đó là “lễ buộc”, nhưng vì được sống trong một thế giới tràn đầy ân sủng và phúc lành.

Trong ý nghĩa đó, chúng ta dâng lễ và cử hành làm sao để cho tình yêu tự hiến của Thiên Chúa tỏ lộ trong tình yêu tự hiến của Đức Kitô, và tình yêu tự hiến của Đức Kitô được tỏ lộ hơn trong đời sống của Giáo Hội, để cho những người khác có thể được chia sẻ trong đó. Như Thông Điệp kết luận : “làm thế nào một tình yêu như thế lại có thể hiện hữu đươc : qua việc được Thiên Chúa thấm nhập, điều này giúp cho người uống lấy nguồn suối từ tình yêu Thiên Chúa, cũng trở thành suối nguồn, từ đó tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (Ga 7,38) ? Là những kẻ được lãnh nhận tình yêu, chúng ta trở thành người trao ban. Kẻ “thụ ân” trong Thánh Thể trở nên người “thi ân” cho những mảnh đời bất hạnh. Chúng ta trở nên chính điều mà chúng ta cử hành trong đức tin, niềm hy vọng và lòng yêu mến.

·         Chiều kích cánh chung của yêu thương

Cuối cùng, một điểm rất quan trọng và đầy ý nghĩa mà Thông điệp nói đến, đó là đặc tính cánh chung của yêu thương. Đức tin, đức cậy và đức mền đều lệ thuộc vào nhau như chúng ta đã biết. Và như Thánh Phaolô đã viết : “Vậy nay, còn lại Tin, Cậy, Mến. Nhưng trong bộ ba ấy, đức Mến lớn hơn cả” (1Cr 13,13). Thông Điệp cũng giải thích :

Niềm tin, đó là ý thức tình yêu của Thiên Chúa tự tỏ lộ nơi trái tim bị đâm thâu của Đức Giêsu trên Thập giá, niềm tin đến phiên mình sẽ làm nảy sinh tình yêu. Và tình yêu là ánh sáng - cuối cùng là ánh sáng duy nhất – sẽ làm cho thế giới đen tối được sáng trở lại và ban cho chúng ta sự can đảm để sống và hành động (s.39).

Như thế chúng ta có thể xác tín rằng “Thiên Chúa gìn giữ thế giới này trong bàn tay của Người” và Người sẽ dẫn đưa chúng ta và tất cả hoàn vũ đến viên thành. Như những kẻ hành hương lên Núi Thánh Sion, chúng ta biết rằng chúng ta đang tiến về cõi vĩnh hằng “Trời mới, Đất mới” (Kh 21,1). Tình yêu Chúa tồn tại từ đời này đến đời kia qua mọi bóng tối âm u của lịch sử. Và đó không phải là một viễn mơ hão huyền, nhưng là một động lực thúc đẩy chúng ta góp phần thực hiện yêu thương, công lý và hòa bình trong thế giới này, nơi chúng ta được một lần làm người. Yêu thương đa thắp sáng lên trong Giáo Hội niềm hy vọng hồng phúc ấy, để một cách nào đó cuộc hiện hữu nơi trần gian của chúng ta có thể trở thành hiện hữu trong tình yêu muôn thuở. Chính Đức Kitô đã xác nhận giá trị vĩnh cửu của mọi hành vi yêu thương trong Phúc âm :

Hãy đến hỡi những kẻ được Cha ta chúc phúc…Vì xưa ta đói mà các ngươi đã cho ta ăn, ta khát mà các ngươi đã cho ta uống…Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta (Mt 25,36-40).

Điều này cho thấy chính yêu thương làm cho chúng ta hiện hữu và là nguồn gốc của tất cả những gì giải thoát chúng ta khỏi sự chết và dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống muôn đời. Như Thư Thứ Nhất của Gioan viết : “Chúng ta biết là chúng ta đã được đi ngang qua sự chết mà vào sự sống vì hiện chúng ta yêu mến anh em. Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết” (1Ga 3,14). Như thế, yêu thương trong viễn tượng cánh chung bao hàm một ý nghĩa chính đáng, vừa soi chiếu cho lối sống của chúng ta trong hiện tại, cũng như hướng chúng ta đến tương lai vĩnh cửu, nơi đó “Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự” (1Cr 15,28).

Những nỗi thống khổ, nhọc nhằn, và những giọt lệ đổ cho tình yêu trong cuộc đời, chắc chắn chẳng có ai có thể đáp trả hết cho chúng ta, nhưng tất cả sẽ được dự phần trong Mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô, Đấng ban cho nhân loại “niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,27). Có nhiều người, khi đến lúc nhắm mắt lìa đời, mới “tỉnh ngộ” và biết rằng mình phải bỏ lại tất cả những gì thuộc về kiếp sống, và chỉ còn lại một “mối tình” được mang theo : đó là yêu thương Thiên Chúa và bao dung với đời. Hay xin mượn lời thơ của Trịnh Công Sơn : “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì ? Để gió cuốn đi. Cho mây qua dòng sông. Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông”. Và nghẫm nghĩ theo tư tưởng Á Đông : “Trăm năm trước ta không có. Trăm năm sau, có cũng không. Cuộc đời có có không không. Trăm năm còn lại tấm lòng mà thôi”.

KẾT LUẬN

Để có thể làm cho thế giới tốt đẹp hơn và con người hiện đại có thể tin rằng họ được Thiên Chúa thương yêu vô vàn và chính họ đều có khả năng yêu thương người thân cận, thì hoạt động bác ái của Giáo Hội phải vượt qua mọi ranh giới và khác biệt về chủng tộc, ngôn ngữ, giai cấp xã hội hay ý thức hệ. Tình yêu không loại trừ một ai, cũng như không kỳ thị người nào. Vì thế, hơn bao giờ hết, làm chứng cho Tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian bằng đời sống yêu thương chính là điều kiện thiết yếu cho việc kiến tạo hòa bình và công lý có hiệu quả thâm sâu.

Đối với Giáo Hội, chính tình yêu tự hiến của Đức Kitô, một “trái tim bị đâm thâu” như thế đó thúc đẩy và nhắc nhở chúng ta về thái độ và cách sống mới theo kiểu mẫu của “Người Samaritano nhân hậu” trong thế giới hôm nay. Qua Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”, chúng ta nhận thấy : yêu thương là con đường duy nhất cần thiết và thích ứng nhất để Giáo Hội có thể đối thoại với một thế giới đầy tính “đa phức”, vì yêu thương là ngôn ngữ “phổ quát” mà mọi trái tim đều có thể hiểu được. Thế nên, trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng Cứu độ, đưa Đạo vào đời cũng như mời đời vào Đạo, yêu thương là dấu hiệu “bất khả ngộ” của sự hiện diện tình yêu của Thiên Chúa nơi Giáo Hội. Tiếng nói của Giáo Hội có “khả tín” hay không đối với con người hiện đại là tùy thuộc vào đời sống thương yêu của mọi Kitô hữu. Thế giới này vẫn cần, khao khát và đợi chờ “một trái tim biết nhìn”, “một trái tim bị đâm thâu”, một trái tim cho yêu thương hòa bình. Tình yêu thì cổ xưa như trái đất, nhưng lúc nào cũng mới mẻ như Mùa Xuân.

 

Lm. Phaolô Vũ Chí Hỷ sss.

Mục lục

 

Text Box: SỐNG CHỨNG NHÂN

 

 

 

 


 

MÓN QUÀ LỄ GIÁNG SINH

 

... Lễ Giáng Sinh được toàn thể Giáo Hội Công Giáo long trọng cử hành hàng năm vào đúng ngày 25-12. Lễ Giáng Sinh là món quà Trời Cao trao ban cho toàn thể nhân loại. Món quà đó chính là Hài Nhi GIÊSU, Vị Cứu Tinh loài người. Vì thế, mỗi khi cử hành Giáng Sinh, người ta thường tặng quà nhau.

Nhưng món quà quý báu nhất là món quà tình thương, khi con người biết mở rộng cửa tiếp nhận tha nhân, nhất là kẻ lỡ bước sa đường. Và cứ mỗi lần làm như thế, con người cử hành Giáng Sinh, bất cứ ngày nào trong năm, như câu chuyện sau đây do anh Jean-Marie Poirier (Canada) kể.

Hôm ấy là buổi chiều tháng 4 năm 1966. Tôi mệt mỏi đói khát, vừa đặt chân lên Paris, thủ đô ánh sáng của Pháp quốc. Ban trưa trên máy bay, người ta chỉ dọn cho chúng tôi bữa ăn đạm bạc. Vì thế, tôi lang thang qua các nẻo đường thủ đô tìm quán ăn mở cửa. Nhưng đi mãi đi hoài vẫn không thấy tiệm ăn nào. Sau cùng, trông thấy quán cà phê giải khát, tôi nhanh chân bước vào. Quán vắng vẻ trống trơn. Chỉ duy nhất người nữ giúp việc.

Người phụ nữ ăn mặc thật giản dị, không trang điểm loè loẹt. Khuôn mặt thoáng nhẹ chút phấn hồng, thế thôi. Bà không mang đồ trang sức. Bà mặc chiếc áo cánh tay dài và cái váy cũng dài, mầu đậm. Đường nét khuôn mặt không có gì sắc sảo, tuy nhiên, chính từ cái nét đơn sơ ấy, lại lan tỏa nét thanh thản hiền hậu, như lúc nào cũng chú ý đến người khác và sẵn sàng ra tay giúp đỡ.

Sau thoáng quan sát và do dự, tôi trình bày hoàn cảnh hơi ”đáng thương” của tôi. Bằng giọng nhẹ nhàng - như muốn làm dịu bớt sự căng thẳng ”bất đắc dĩ” phải từ chối - bà nói với tôi:

- Rất tiếc, nơi quán chúng tôi, chỉ tiếp nước giải khát cho khách, chứ không dọn thức ăn. Có lẽ nơi khách sạn, có dọn bữa tối cho ông chăng?

Tôi buồn bã trả lời ngay:

- Nơi khách sạn cũng vậy, đáng tiếc người ta không dọn bữa ăn cho chúng tôi!

Nói xong câu đó, tôi đứng im bất động, dáng điệu mệt mỏi thất vọng.

Thấy thế, người phụ nữ nhẹ nhàng hỏi:

- Tôi vừa dùng xong bữa tối. Và còn ít thức ăn đủ cho một người. Ông có bằng lòng đợi một chút, tôi hâm nóng cho ông không?

Dĩ nhiên tôi không đòi hỏi hay mong ước gì hơn!

Mấy phút sau, người phụ nữ xuất hiện, trên tay mang chiếc đĩa thức ăn bốc khói. Thức ăn giản dị nhưng thơm ngon. Giống như người phụ nữ đang đứng trước mặt tôi. Tôi rụt rè đề nghị:

- Bà bằng lòng uống một ly với tôi không?

Bà tỏ dấu do dự một chút, trước khi kéo ghế ngồi xuống.


Điều hiển nhiên là bà không thường làm thế với khách hàng. Nhưng đâu phải tối nào bà cũng cứu vớt một kẻ sa chân lỡ bước như tôi!

Chúng tôi trao đổi câu thăm hỏi xã giao và kín đáo. Vì sợ làm phiền bà, tôi liếc mắt nhìn đồng hồ. Như hiểu ý, người phụ nữ cho tôi biết còn lâu mới đến giờ quán đóng cửa. Chúng tôi tiếp tục cuộc nói chuyện. Bà hỏi tôi về tỉnh Québec của Canada. Tôi hỏi bà về thủ đô Paris. Chúng

tôi tiếp tục câu chuyện trong thân mật của hai người khách lạ, bỗng tình cờ gặp nhau trong quán cà phê vắng, vào một buổi tối tháng Tư! Bóng đèn mờ nhạt của quán cà phê làm cho người phụ nữ đang ngồi trước mặt tôi, trở thành một phụ nữ không tuổi tác ..

Rất có thể bà đã quên hẳn khuôn mặt tôi, sau khi tôi rời khỏi quán và cánh cửa quán khép chặt lại. Nhưng nếu bà quên tôi, thì trái lại, tôi không bao giờ quên khuôn mặt bà, nhất là, tôi không bao giờ quên cử chỉ nhân hậu hiếu khách của bà. Tôi không hân hạnh biết tên tuổi bà. Nhưng không sao! Điều quan trọng tôi luôn ghi nhớ rằng, bà đã có mặt tại đó, đã là vị ”thiên-thần” tiếp rước tôi, vào lúc tôi bị đói khát, mệt mỏi, một mình lang thang trên các đường phố của thủ đô Paris!

Kể từ sau buổi tối ấy, tôi luôn luôn tin vào phép mầu thần diệu của Lễ Giáng Sinh, bởi vì, luôn luôn có những tấm lòng tốt, khiến cho Lễ Giáng Sinh có thể xảy ra, ngay cả vào một ngày trong tháng Tư!

Đối với với tôi, Lễ Giáng Sinh là mỗi khi chúng ta rộng tay, mở cửa tiếp nhận một người khách lạ lỡ đường.

(”Reader's Digest SÉLECTION, Décembre/1992, trang 93-94).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

Text Box: CÙNG ĐỌC & SUY NGẪM

 

 

 


 

Gánh hàng rong

Khoảng 6 giờ sáng tiếng rao của bà lại vang vọng cả xóm lao động nghèo: “Rau cải xanh, mời anh mời chị”. Từ những căn hộ xung quanh có tiếng mở cửa lách cách rồi tiếng gọi rôm rả: “Bán cho con nắm rau dền cơm và hai trái dưa chuột”, “bán cho cháu bó đậu đũa”...

Mẹ tôi kể bà bán hàng rong ở xóm này đã gần ba mươi năm và suốt quãng thời gian ấy, mẹ vẫn thường mua rau của bà. Một ngày làm việc của bà thường bắt đầu lúc 2 giờ và kết thúc khi trời nhá nhem tối. Nhà ở Hóc Môn, hằng ngày bà đón chuyến xe buýt đầu tiên rồi xuống bến Bà Quẹo cũ. Bà quảy đòn gánh trên vai, rong ruổi qua hàng chục cây số, từng ngõ hẻm, trong đó có xóm nhà tôi. Gánh hàng ba mươi năm của bà chỉ là những thứ rau dân dã bà hái trong vườn nhà, bán được vài đồng để mua thêm mắm, muối. Bà bán rẻ hơn và rau tươi xanh hơn ở chợ nên mọi người thường đợi mua rau của bà. Tôi thích nhất khi mẹ mua một mớ rau dền cơm non mơn mởn, luộc chấm mắm kho tiêu ăn mãi không thấy chán.

Mấy hôm nay trở trời, mưa nhiều vào buổi chiều, nhưng tôi vẫn nghe tiếng rao quen thuộc của bà. Tiếng rao dày hơn nhưng hình như cũng yếu hơn. Cửa nhà hàng xóm vẫn đóng im ỉm, vắng tiếng gọi mua rau như mọi hôm. Có lẽ vì trời mưa to nên chẳng ai muốn ra đường. Tôi vội chạy vụt trong mưa để gọi bà quay lại bán cho nắm rau dền cơm như mẹ vẫn thường mua. Bà nhoẻn miệng cười nhưng có chút lo lắng: “Mưa lớn quá, bà định nghỉ bán nhưng sợ mọi người trông nên cố gắng đi thêm. Hôm nay chắc ế rồi cháu ạ!”. Tôi đứng nhìn bóng bà khuất trong mưa với tiếng rao xa dần mà thầm mong cơn mưa mau ngớt.

Hồng Minh

Mục lục

 

Text Box: TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

 

 

 


 

CỦ TỎI ĂN GỎI HẠNH PHÚC

 

Ong chồng kỵ mùi tỏi. Một buổi cơm, chị vợ quên cái “Gu ” của chồng, nên làm một bát nước chấm pha tỏi. Thấy vậy, anh nhăn mặt gắt gỏng:

 -  “Giời ơi! Lại tỏi. Tôi đã bảo, tôi không chịu được cái mùi chết tiệt, cái mùi ghê tởm ấy mà”

 Chị vợ, đầu tiên xin lỗi, tại quên. Nhưng thấy chồng làm dữ quá, tức mình sẵng lại:

 -  “Mình không ăn thì để người khác ăn! Ghê với chẳng tởm! Mình mới là người, còn người ta là gì? Ghê … tởm!”. 

 Thế là khẩu chiến bùng nỗ, mức độ tàn phá không lường nổi: Cả hai đâm đơn ly dị, sau chỉ hơn mười tháng chung sống.

Bà con lối xóm thấy vậy, liền đưa ra câu kết luận: “Thật đúng! Củ tỏi ăn gỏi hạnh phúc ”.

Thực sự, củ tỏi đó chỉ là một giọt nước, đổ vào cái tô đã quá đầy, không thể chứa thêm một giọt nào nữa. Bởi đó, dù chỉ một giọt thêm vào, cũng phải tràn ra. Giọt thêm vào đó, nếu không là củ tỏi, thì cũng là một thứ khác, có khi còn “Hài hước” hơn cả củ tỏi.

Chỉ hơn mười tháng sống chung, mà bát nước xung khắc đã đầy, điều này rất đáng suy nghĩ. Cái lỗi nhất định nằm cả hai phía, vợ cũng như chồng.

Chị đừng nghĩ: Quen nhau cả năm rồi, biết nhau hết trơn hết trọi, thì cần gì phải làm quen nữa. Thế nhưng vẫn phải làm quen đó. Chị không tin ư?

Này nhé, khi chưa về chung sống với nhau, làm sao chị biết chồng chị, hễ ngủ là ngáy như sấm, chân thì gác tứ tung, lại còn mê sảng lảm nhảm nữa, miệng lưỡi gì mà cứ chẩy dãi ra đầy gối, không khác trẻ con tí nào … và còn nhiều tật nữa, nói hết xấu hổ lắm.

Ngoài những khám phá khó chịu trên, nhiều xung khắc khác nhau trong thói quen sinh hoạt như: An tỏi, ăn ớt chẳng hạn, đột phá xông lên. Ban tối, chị thì thích đọc sách hoặc đan thêu, anh lại thích “Khò” từ rất sớm. Ngay cả những gì hai người vẫn chiều chuộng nhau ở giai đoạn tìm hiểu, thì bây giờ đã là vợ chồng, lại đi đâu mất cả, dường như nó Đề-mốt-đê hết rồi, nên cả hai, chẳng ai dám xài. Ngược lại, nhiều “Dây dợ” mới, theo nhau, lộ diện  … Những điều đó, nếu không biết làm quen và chung sống hòa bình với nó, thì nhất định chỉ còn nước “Chia tay”.

 Về phía chồng, anh cũng phải tập làm quen với vợ. Anh đừng nghĩ, đó là chuyện nhỏ. Nhỏ nhưng có thể “Đắm thuyền đấy ”. Cũng đừng cho nó là chuyện vặt vãnh, buồn cười. Bởi vì, không thiếu những ca cười, mà ra cả nước mắt.

Nếu không đủ nghị lực để làm quen với nhau trong giai đoạn “Quá độ” của tình yêu này, thì từ khó chịu sẽ đi đến công kích, chê trách lẫn nhau. Tiếp theo là cãi vã, xỉ mạ nhau. Và cuối cùng, bỏ nhau là điều chẳng có gì khó hiểu.

Thời gian làm quen, lâu hay mau, tùy thuộc vào sự hiểu biết và nồng độ yêu thương của cả hai người. Muốn vào được lâu đài hạnh phúc, cần phải kiên trì. Đồng thời, mỗi người phải chấp nhận thay đổi chính mình, hạn chế một vài sở thích hoặc ham muốn nào đó của mình, để làm vui lòng người kia.

Tình yêu là một sự cho đi. Cho đi nhưng không lỗ đâu. Nếu cả hai chỉ “Cho” mà không “Đòi ”    thì cả hai đều “Được”, chớ đâu có mất. Hai cái được cộng lại, là được gấp đôi. Lời gấp đôi, thì “Mái nhà tranh” vươn thành cao ốc, đâu có mấy hồi.

Anh chị thân thương,

Câu chuyện anh chồng kỵ tỏi, rồi gằn hắt vợ. Bà vợ cũng không chịu nổi sự gằn hắt của chồng tới lần thứ ba, nên cũng “Phản pháo” lại. Và hậu quả là “Tan đàn xẻ nghé”

 Con “Virut” chỉ nhỏ, không ngờ đủ sức phá vỡ hạnh phúc của một gia đình. Tôi dám chắc, anh chị chẳng muốn hoàn cảnh tương tự xảy ra cho mình.

Không muốn bị hại vì con virút trên, thì anh chị cần phải chủng ngừa, để vô hiệu hóa độc dược của nó.

Nhưng chủng ngừa bằng cách nào? Trước tiên, anh chị hãy trồng hoa vào lòng mình. Một khi trái tim đã là hoa, thì nhứt định lời nói sẽ nưng nức mùi hương của hoa. Hương hoa ai chả thích, sắc hoa ai chả yêu. Đã yêu và thích, thì bực tức, giận hờn, làm gì có đất để nẩy mầm!

Thánh Phaolô đã từng khuyên chúng ta “Vì lòng bác ái yêu thương, anh chị em hãy chịu đựng lẫn nhau ”. Đời sống vợ chồng, nếu anh chị cố áp dụng lời khuyên của vị Tông đồ, nóng như lửa, nhưng cũng chịu đựng thật anh hùng, thì chẳng khi nào, xích mích có thể xảy ra. Nếu có xảy ra, thì cũng chỉ để làm sáng tỏ chân lý, như trường hợp thánh Phaolô đã thẳng thắn trách cứ thánh Phêrô, đã quá nể tình người Do Thái, nên tránh đồng bàn với anh em Kitô hữu gốc lương dân … Và thánh Phêrô, khi đã nhận ra sự thật, ngài liền khiêm tốn chấp nhận, chớ chẳng hề ngoan cố, cãi cho bằng được. Anh chị hãy theo gương hai ngài, mỗi khi gặp bất đồng quan điểm. Hãy khiêm tốn nhận mình đã sai và sửa sai. Và hãy thẳng thắn nhìn nhận người kia đã đúng và cám ơn họ.

Nếu cả hai đều cố tạo cho mình cách cư xử đẹp đẽ đó, thì mái ấm gia đình của anh chị, quả thực, đã là một Thiên Đường tại thế.

 

 

Trích tập sách “ Tình không như là mơ” của Lm. Hồng Nguyên

Mục lục

 

 

Khi trẻ không hoà đồng với các bạn

 

 

Tiến sĩ Benjamin Spock                                                 

 

Trẻ hoà đồng hay không hoà đồng đều phụ thuộc vào môi trường mà trẻ đang giao tiếp. Với môi trường quen thuộc, bé là người rất dễ gần, nhưng trong môi trường lạ, bé có thể lại trở nên "kỳ lạ" tới mức khó hiểu. Khi con bạn bị coi là người không hoà đồng, cả bạn và bé đều buồn phiền. Chúng ta đều có những cách làm đơn giản để kiểm soát nỗi buồn trên.

Để giúp con hoà hợp với mọi người (như vậy bé sẽ cảm thấy tốt về bản thân mình hơn), bạn cần phải hành động tế nhị. Thay vì chỉ trích, thuyết giáo con, bạn có thể nói với con "Nếu con hành động tốt hơn, cười nhiều hơn mọi người sẽ quý con hơn!", chỉ ra rõ ràng vấn đề của bé sẽ giúp bé tin rằng vấn đề gì đang xảy ra đối với bé.

Không nên phủ nhận cảm xúc của bé theo kiểu "Tại sao con lại cứ lo lắng về việc các bạn khác nghĩ gì về mình? Không có vấn đề gì đâu con ạ." Đối với con trẻ ở tuổi tới trường, suy nghĩ của người khác về bản thân mình lại là điều rất quan trọng. Thay vì vậy, phương thức tiếp cận lạc quan là tốt nhất. Bạn có thể nói "Mẹ sẽ làm một số việc để giúp con cảm thấy thoải mái về trường học nhé.

Dưới đây là một số gợi ý của tiến sĩ Dock.

Giáo viên có thể giúp được gì.

Nếu một cậu bé gặp phải vấn đề trong khi kết bạn, bạn có thể cho bé tham gia lớp học có chương trình học linh động. Sau đó, giáo viên có thể sắp xếp lại mọi thứ để bé có cơ hội sử dụng khả năng của mình để tham gia và các dự án trong lớp. Đây chính là cách để các bạn khác có thể đánh giá về các phẩm chất của bé và thích bé. Một giáo viên giỏi mà các bạn trong lớp tín nhiệm cũng có thể khuyến khích tính quần chúng của trẻ bằng cách chỉ cho bé cách đánh giá một bạn khác. Giáo viên có thể cho bé ngồi cạnh một bạn rất hoà đồng với mọi người hoặc để bé kết bạn với một bạn năng động,...

Những điều có thể làm ở nhà.

Đây là những việc mà bạn có thể giúp con ở nhà. Thân thiện và hiếu khác khi con bạn đưa bạn cùng lớp về nhà chơi. Khuyến khích con mời các bạn đến dùng bữa và sau đó khuyến khích bọn trẻ giửa bát đĩa. Khi bạn lập kế hoạch cho kỳ nghỉ cuối tuần, đi dã ngoại, xem phim,... bạn hãy mời một trẻ khác mà con bạn muốn kết bạn - Cháu đó không nhất thiết phải là người mà bạn thích con mình kết bạn. Cũng như người lớn, con trẻ có khuynh hướng nhìn thấy điểm tốt của bạn mình và sẽ muốn kết bạn với những trẻ có điểm tốt.

Vấn đề là ở chỗ bạn cố gắng "ép" con mình phải hoà đồng. Việc bạn cần làm là nên tạo điều kiện cho con tham gia vào một nhóm các bạn cùng lứa tuổi. Sau đó, bé tự bộc lộ các phẩm chất tốt của mình và tự kết bạn.

Ngô Thu Hiền

Mục lục

 

 

Text Box: ĐỌC SÁCH

 

 

Quà Giáng Sinh

 

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhằm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là Lễ Giáng Sinh.Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ tồi tàn, cô đang nức nở.

Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố New York.

Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy, đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc, nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm 'Jim', James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.

Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.

Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món qùa. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.


Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

Della buớc chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.

Della cất tiếng hỏi : 'Bà mua tóc tôi không?'

'Tôi chuyên mua tóc mà', bà ta đáp và bảo : 'Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi'

Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.

'Hai mươi đồng' bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

'Hãy cắt nhanh đi ! Và đưa tiền cho tôi' Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.

Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm :'Mình có thể làm gì với nó đây?'. Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ tòan những sợi quăn quăn khắp đầu. 'Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!'. Cô tự nhủ : 'Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?'

Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.

Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc : 'Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "Giáng Sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!'

'Em đã cắt mất tóc rồi à?' Jim hỏi.

'Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà!' Della nói.

Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn : 'Em nói là em đã bán tóc à?'

'Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?'

Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói : 'Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy.'

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc. 'Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim', nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.

'Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này'

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói : 'Della,hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu.'

Đó là một câu chuyện cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng yêu nhau.

Tin vui sưu tầm từ Internet

Mục lục

 

 

 

 

Text Box: Để xem them các bài viết khác xin mời vào Trang Nhà Tin vui
 (website)  http://www.tinvui.org
Thư từ, ý kiến, và bài vở xin gửi  về  bantreconggiao@yahoo.com
Muốn nhận báo cũ và mới xinQuý Vị gửi về tinvuivietnam@gmail.com.
CHÂN THÀNH CÁM ƠN
?¶?